Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Bạt

08/01/201920:45(Xem: 4401)
Lời Bạt

LỜI BẠT

Của Khyongla Rato và Richard Gere

 

 

 Vào tháng Tám năm 1991 Trung Tâm Tây Tạng và Tổ Chức Gere vô cùng danh dự đứng ra tổ chức hai tuần giảng dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở New York City.  Những buổi giảng dạy đã diễn ra tại Madison Square Garden và dẫn đến lễ quán đảnh Kalachakra - Mật Pháp Thời Luân, một trong những nghi lễ quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng.

 

Kalachakra có nghĩa là "bánh xe thời gian" (Thời Luân).  Bánh xe thời gian đã luôn chuyển vận, và trong khi ở Ấn Độ vào mùa xuân 1997, chúng tôi đã cung thỉnh Đức Thánh Thiện trở lại New York nhằm để kỷ niệm lễ quán đảnh năm 1991.  Đức Thánh Thiện đã nhận lời ngay lập tức, và một thời gian được quyết định cho sự viếng thăm của ngài, mặc dù không có chủ đề đặc biệt được chọn lựa cho sự giảng dạy của ngài.

 

Sau này chúng tôi đã gặp Đức Thánh Thiện một lần nữa một  năm sau đó.  Vào lúc này, có một thảo luận quan trọng về chủ đề ngài sẽ phát biểu.  Khởi đầu chúng tôi đã cung thỉnh ngài dạy về tánh không, chủ đề thậm thâm nhất và thách thức nhất trong triết lý Phật Giáo.  Tuy nhiên, sau khi quán sát sâu hơn, chúng tôi cảm thấy rằng sẽ lợi ích hơn trong việc chọn lựa một giáo huấn phổ thông hơn, một giáo huấn cung ứng  một cái nhìn tổng thể về con đường Đạo Phật nhưng cũng chứng tỏ dễ hiểu cho những thuộc các tín ngưỡng khác nhau.  Cảm nhận rằng người nghe sẽ lợi ích từ giáo huấn lối sống của Bồ tát, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chọn lựa phối hợp Những Giai Tầng Thiền Quán của Liên Hoa Giới và Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo của Togmay Sangpo.

 

 Ba ngày giảng dạy đã được diễn ra ở Hí Viện Beacon ở Upper West Side của Mahattan, trước ba nghìn người.  Từ lòng tôn kính giáo lý mà ngài truyền đạt, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thuyết giảng giáo huấn từ một bảo tòa.  Nhiều người nghe đã đảnh lễ theo truyền thống và cúng dường tượng trưng như một phần của nghi thức khuyến thỉnh cho sự giảng dạy.  Theo sau ba ngày giảng ở Hí Viện Beacon, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban bố những buổi giảng công cộng ít nghi thức hơn ở Central Park.  Việc tổ chức sự kiện này chúng tỏ một việc làm táo bạo liên hệ sự hợp tác của vô số nhân viên và cơ quan của các thành phố, tiểu bang, và liên bang.  Hàng trăm tình nguyện viên đã làm việc quên mình.

 

Cuối cùng, buổi sáng Chúa Nhật buổi thuyết giảng đã đến.  Chúng tôi nói đúng hơn là lái xe một cách băn khoăn đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma từ khách sạn của ngài đến East Meadow, gần bên đường Số 5 và đường 98, nơi ngài sẽ đi vào Central Park.  Đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi số người nghe được tiên liệu là bao nhiêu.  Chúng tôi nói với ngài rằng chúng tôi sẽ vui mừng với khoảng mười lăm đến hai mươi nghìn người, nhưng thật sự chúng tôi không biết.  Khi chúng tôi lên đến đường Madison, chúng tôi cố gắng nhìn bên đường để thấy có dấu hiệu gì của người đi giảng không.  Khi chúng tôi đến đường 86, chúng tôi bắt đầu thấy người ta đông đầy trên lề đường, và mọi người đang đi đến Central Park.

 

Chúng tôi đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma đến chiếc lều phía sau khán đài và đi đến nhìn lén qua tấm màn.  Chúng tôi đã choáng ngợp khi thấy toàn bộ East Meadow đã tràn ngập quá sức chứa. Thật là một khung cảnh tuyệt đẹp và cảm động.  Sau này chúng tôi được biết là hơn hai trăm nghìn người đã tập họp một cách hòa bình ở đấy.  Cả khu vực tràn đầy sự gia hộ.  Cơn mưa rơi lúc sớm đã chấm dứt.  Với một hệ thống âm thanh đồ sộ và hiệu thính viên video đã sẳn sàng phóng chiếu những lời giảng dạy của ngài đến đám đông vĩ đại.  Đức Thánh Thiện đã bước ra khán đài được trang trí với những bông hoa và một chiếc gỗ được đặt ở chính giữa.

 

Đức Thánh Thiện đã chọn nói Anh văn.  Qua phong cách giản dị ngài đã truyền cảm hứng đến tất cả mọi người hiện diện dấn thân trong những cung cách đức hạnh.  Chắc chắn, nhiều người hiện diện đã phát tâm bồ đề, ngưỡng mộ đạt đến giác ngộ hoàn toàn nhằm để hổ trợ người khác.  Chúng ta có thể tưởng tượng rằng khi trở lại nhà, tất những người tham dự chia sẻ kinh nghiệm với gia đình và thân hữu, nhờ thế truyền cảm hứng thậm chí nhiều tư tưởng và hành vi đức hạnh hơn.  Những người khác đọc biết về sự kiện này hay xem trên truyền hình.  Kết quả hàng triệu người phát sinh những tư tưởng tốt lành như một kết quả của buổi sáng hôm ấy ở Central Park.

 

Theo niềm tin Phật Giáo, vô số Đức Phật và Bồ tát chứng minh những tư tưởng đức hạnh được phát sinh bởi những người tụ tập tại Central Park.  Chúng tôi tin rằng chư Phật và Bồ tát trong mười phương sau đó sẽ chúc nguyện rằng những tư tưởng thánh thiện này không bị tan biến và tất cả những người này sẽ tiến bộ trên con đường tâm linh của họ.

 

Khi Đức Thánh Thiện hoàn tất giảng dạy, chúng tôi cầu nguyện rằng, như một kết quả tích tập đạo đức qua sự kiện này, Ngài Di Lặc, Đức Phật tương lai, sẽ hạ sanh và biểu hiện việc đạt đến giác ngộ của Ngài, rằng tri thức của mọi người hiện diện sẽ rộ nở trong tuệ trí và rằng tất cả những nhu cầu của họ sẽ được toại nguyện.  Chúng tôi nguyện cầu rằng Đức Di Lặc sẽ vô cùng vui lòng, ngài sẽ đặt bàn tay phải trên đầu<![if !supportFootnotes]>[1]<![endif]> của mỗi người và thọ ký cho việc đạt đến giác ngộ vô thượng của người ấy.

 

Khi chúng tôi lái xe khỏi Central Park, Đức Thánh Thiện cảm ơn chúng tôi cho việc tổ chức nên sự kiện này, và đáp lại chúng tôi cũng bày tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với ngài.  Ngài đã một lần chia sẻ với chúng tôi vấn đề ngài đã cảm thấy cô đơn như thế nào khi lần đầu tiên đào thoát lưu vong sang Ấn Độ năm 1959 - một người tị nạn, gần như không có bạn hữu, quê hương thì bị quân Trung Cộng chiếm đóng và đồng bào ngài bị đối xử một cách tàn nhẫn bởi một toan tính diệt chủng có hệ thống.  Bây giờ, sau hơn bốn mươi năm sau, qua không gì  hơn những lời chân thật giản dị của ngài và chí nguyện hoàn toàn từ trái tim thánh thiện của ngài, ngài đã có những người bạn chân thành ở khắp nơi.

 

Chủ đề nói chuyện của ngài, Tám Đề Mục Chuyển Hóa Tâm, là một thực hành Đạo Phật rất cao thượng.  Theo truyền thống, một giáo huấn loại này sẽ không được ban bố một cách công cộng, và chắc chắn không có một thính chúng đông đảo như vậy.   Chúng tôi thật vui mừng khôn xiết vì có quá nhiều người đã đến nghe pháp, mặc dù chúng tôi cũng nhận ra rằng đề tài quá sâu xa và thật thử thách.  Có bao nhiêu người trong chúng ta có thể áp dụng những lời thông tuệ của ngài?

 

Một chú ý đặc biệt phải được thực hiện bởi sự nhuận sắc của Rato Geshe Nicolas Vreeland với những lời giảng dạy của Đức Thánh Thiện trong ba ngày tại Hí Viện Beacon và bài thuyết  pháp tại Central Park.  Hầu hết những tri thức quá cấp tiến, một số vượt ngoài tầm hiểu biết của một thính chúng phổ thông.  Khi thảo luận về những khó khăn cố hữu, Đức Thánh Thiện đã nói với Nicolas là hãy "hãy quyết định theo suy nghĩ của ông<![if !supportFootnotes]>[2]<![endif]>" trong khi chánh niệm để không đánh mất sự thâm thúy và thuần khiết của giáo huấn, Nicolas đã thành công một cách năng động.  Công đức của quyển sách này là của ông.

 

Nhưng trên tất cả, chúng tôi mong ước cảm ơn Đức Thánh Thiện Đạt Lai Lạt Ma  cho việc tiếp tục ban bố những giáo huấn quý báu này.  Nguyện cho quyển sách này giúp thuần hóa tâm thức và khơi mở trái tim của tất cả chúng sanh.

 

Thursday, November 01, 2012 / 19:55:25

 

TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ, VÀ NGƯỜI HIỆU CHỈNH

 

 

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA

 

<![if !vml]>blank<![endif]> Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn, Tenzin Gyatso, là lĩnh tụ tâm linh và thế quyền Tây Tạng.  Năm 1989, ngài đoạt giải Nobel Hòa Bình vì sự đấu tranh bất bạo động cho sự giải phóng Tây Tạng.  Từ năm 1959, ngài đã sống lưu vong tại Ấn Độ. Tây Tạng tiếp tục bị Trung Cộng chiếm đóng.

 

THUPTEN JINPA

<![if !vml]>http://www.tanc.org/wp-content/uploads/2010/03/VenThuptenJinpa.jpg<![endif]>

 Geshe Thupten Jinpa  là người thông dịch chính của Đức Đạt Lai Lạt Ma từ năm 1985.  Ông đã phiên dịch và nhuận sắc hơn mười quyển sách của Đức Đạt Lai Lạt Ma kể cả quyển Thế Giới Phật Giáo Tây Tạng<![if !supportFootnotes]>[3]<![endif]>, Một Trái Tim Thánh Thiện<![if !supportFootnotes]>[4]<![endif]>: Nhận Thức của Người Phật tử về Giáo Huấn của Chúa Giê-su, và quyển sách bán chạy nhất của New York Times Đạo Đức Cho Thiên Niên Kỷ Mới<![if !supportFootnotes]>[5]<![endif]>.

 

Geshe Thupten Jinpa  sinh năm 1958 ở Tây Tạng.  Ông tiếp nhận sự học vấn và rèn luyện như một tu sĩ tại Tu Viện Zongkar Chöde ở Nam Ấn và sau này tham gia the Shartse College của Ganden monastic university, nơi ông nhận bằng Geshe Lharam. Ông đã dạy nhận thức luận, siêu hình học, triết lý Trung Quán và Tâm Lý Học Phật Giáo tại Ganden trong năm năm.  Jinpa cũng được bằng cử nhân danh dự trong triết lý phương Tây và bằng tiến sĩ trong Nghiên Cứu Tôn Giáo, cả hai từ Đại Học Cambridge của Anh Quốc.

 

Từ 1996 đến 1999, ông đã là Thành Viên Nghiên Cứu của Margaret Smith về Tôn Giáo Phương Đông tại Girton College, Cambridge và bây giờ ông đã thành lập Học Viện Cổ Truyền Tây Tạng nơi ông là chủ tịch lẫn chủ bút của Viện Phiên Dịch những văn bản Cổ Truyền của Tây Tạng.  Ông cũng là thành viên hội đồng cố vấn của Viện Tâm Thức và Đời Sống, cống hiến để nuôi dưỡng sự đối thoại sáng tạo giữa truyền thống Phật Giáo và khoa học Phương Tây.

 

Ông là một Học Giả Tham Quan Nghiên Cứu tại Học Viện Stanford  vì sự Đổi Mới Thần Kinh và Thần Kinh Học Tịnh Tiến tại Đại Học Stanford .

 

Geshe Thupten Jinpa  đã viết nhiều quyển sách và đề tài.  Những tác phẩm mới đây nhất của ông là Những Bài Hát Kinh Nghiệm Tâm Linh Tây Tạng (đồng hiệu đính với Jas Elsner), và Tự Ngã, Thực Tại, và Lý Trí trong Tư Tưởng Tây Tạng: Nhu Cầu của Tông Khách Ba cho một Quan Điểm Trung Đạo.

 

 

 

NICHOLAS VREELAND

 

<![if !vml]>http://www.hachettebookgroup.com/_images/Contributors/images_main/1003709_215X340.jpg<![endif]>Sinh ở Geneva, Thụy Sĩ, một người bảo trợ của Henri Cartier - Bresson, con trai của Đại Sứ Hoa Kỳ, Frederick Vreeland, cháu của Diana Vreeland, đã từng sống ở Đức Quốc, Ma- Rốc, Ý Đại Lợi, Paris, New York, và Ấn Độ.  Ông nói lưu loát tiếng Tây Tạng, Ý Đại Lợi, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức, và Hindi cùng những ngôn ngữ khác.  Ông đã học tại trường Phim ảnh NYU, khởi đầu làm việc cho Irving Penn, trước khi làm việc cho Richard Avedon, và đã chụp hình những Maharajahs Ấn Giáo và những Rinpoches Tây Tạng trong nhiều năm mang một chiếc máy chụp hình khổng lồ Deardorff 5 x 7 khắp Ấn Độ.   Chân dung Đức Đạt Lai Lạt Ma của ông được sử dụng làm bản thông tin khắp New York trong chuyến thăm của ngài năm 2003.

 

Vreeland đã học về Phật Giáo ở The Tibet Center, một trung tâm Phật Giáo Tây Tạng xưa nhất ở NYC, dưới sự đở đầu của học giả Khyongla Rato Rinpoche.  Năm 1985, ông trở thành tu sĩ Phật Giáo chính thức, sống ở Tu viện Rato Dratsang ở Karnataka, Ấn Độ.  Sau 14 năm học tập ông tốt nghiệp với bằng 'the Ser Tri Geshe Degree', một trong ba người phương Tây đạt được danh dự này từ trước đến nay.  Năm 2001, ông có danh dự đặc biệt hiệu chỉnh quyển Trái Tim Rộng Mở, một trong những quyển sách bán chạy nhất của  Đức Đạt Lai Lạt Ma. 

 

Sunday, October 21, 2012 / 19:20:51

 

 

 TUỆ UYỂN

Tuệ -Uyển là bút danh của Tỳ kheo Thích Từ-Đức, Pd: Quảng Định,

hiệu Tuệ-Không xuất gia và tu học tại 
TU VIỆN KIM SƠN
 P.O. Box 1983, 
Morgan Hill, CA 95038, Hoa Kỳ

Office: (408) 848-1541
Mobile: (831) 206-2398
 e-mail:
[email protected].

 

Bài và sách do TUỆ UYỂN CHUYỂN NGỮ

http://tue-uyen.blogspot.com/

 

 

 

<![if !supportFootnotes]>

<![endif]>

<![if !supportFootnotes]>[1]<![endif]> Khi dịch đến chỗ nguyện cầu Đức Phật Di Lặc đặt tay phải lên đầu cho mỗi người không biết tại sao

Tuệ Uyển vô cùng xúc động đến rơi nước mắt.

<![if !supportFootnotes]>[3]<![endif]> The World of Tibetan Buddhism (Wisdom Publications, 1993)

<![if !supportFootnotes]>[4]<![endif]> A Good Heart: A Buddhist Perspective on the Teachings of Jesus (Wisdom Publications, 1996)

<![if !supportFootnotes]>[5]<![endif]>  Ethics for the New Millennium(Riverhead, 1999).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2011(Xem: 7748)
Ở đây một trong những người thầy vĩ đại của thời đại chúng ta đặc biệt nói chuyện cùng những người trẻ và trình bày một triết lý thực tế của sự giáo dục không liên quan gì đến những cống hiến hiện nay trong hầu hết những trường học và đại học của chúng ta. Krishnamurti phơi bày những gốc rễ của sợ hãi và loại bỏ những thói quen được thiết lập sâu thẳm của truyền thống, mô phỏng, và thành kiến.
04/10/2011(Xem: 7430)
Tiếp theo, chúng ta nói về sự bố thí. Phía trước tôi đã nói đến có một lần tôi ở trường học, hôm khánh thành toà lầu Học viện Thương nghiệp, tôi cũng tham gia buổi lễ khai mạc. Trong buổi lễ, nhà trường có mời một vị giáo thọ người Mỹ nổi tiếng của Học viện Thương nghiệp đến diễn giảng. Sau khi tôi nghe rồi, tôi có cảm khái rất sâu sắc. Bởi vì ngay lúc đó hiệu trưởng đang ngồi bên cạnh tôi, chúng tôi rất thân quen nhau, tôi liền cảm khái nói với hiểu trưởng, tôi cười đùa mà nói với ông rằng giáo trình của Học viện Thương nghiệp này tôi cũng có thể dạy.
02/10/2011(Xem: 8422)
Hôm nay chúng tôi giảng về Sự tương quan giữa Bát-nhã và Thiền tông. Đề tài này hơi cao, quí vị chịu khó lắng nghe kỹ mới thấy giá trị của đạo Phật. CácThiền viện của chúng tôi trước khi sám hối phải tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Sau khi xả thiền cũng tụng một biến Bát-nhã Tâm Kinh. Nhiều người hỏi tại sao không tụng kinh khác mà lại tụng Bát-nhã Tâm Kinh. Bởi vì Bát-nhã Tâm Kinh là một bài kinh rất thiết yếu cho người tu Phật, chẳng những tu Thiền mà tu Tịnh, tu Mật đều quí cả.
25/09/2011(Xem: 9213)
Chúng ta không cần đi đâu xa, ở ngay tại nhà nhìn qua trang báo hằng ngày cũng đủ cho chúng ta thấy những tệ nạn xã hội hiện nay như thế nào. Rượu chè, cướp bóc, cờ bạc, mãi dâm... xảy ra thường xuyên, nếu ta có thời giờ bỏ ra vài năm hay cả cuộc đời để thống kênhững sự kiện ấy cũng không thể nào hết được, vì thế mà các nhà báo chí không thất nghiệp, nay tường thuật tệ nạn này, mai báo cáo tệ hại khác...
25/09/2011(Xem: 8830)
Dịch giả trước đây đã nêu lên chủ đề này qua một bài viết ngắn vàongày 7 tháng 8 năm 2010, mang tựa đề là "CâuChuyện về Barlaam và Joasaph: hay một sự trùng hợp lạ lùng giữa các tôngiáo",(có thể xem bài này trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức...). Thế nhưng quả là một sự ngạc nhiên kỳ thú là khilùng lại các tài liệu cũ thì tình cờ mới thấy rằng trước đó gần một năm Viện ĐạiHọc Phật Giáo Âu Châu (UBE : Université Bouddhhique Européenne) cũng đã đưa vấnđề này lên mạng trong số phát hành ngày 1 tháng 12 năm 2009, tức là vào dịp nhữngngày lễ cuối năm ở Âu Châu. Bài viết này có thể xem như là một bài khảo cứu nêulên một số dữ kiện để chúng ta cùng suy tư về một vài khía cạnh nào đó của tôngiáo nói chung.
24/09/2011(Xem: 7054)
Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng. Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.
21/09/2011(Xem: 16831)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
15/09/2011(Xem: 7373)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng làđiều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông còn biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ thì chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao?
15/09/2011(Xem: 9193)
* Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không kiêm cầu Tịnh Độ, tất khó giải thoát ngay trong một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành hư tưởng. Đây là sự kiện thiết yếu thứ hai, mà hành giả cần lưu ý.
15/09/2011(Xem: 8291)
Ngài Achaan Chah là một trong những vị đại sư nổi tiếng của đất nước chùa tháp Thái Lan. Ngài duy trì lối tu học truyền thống như thời của Đức Phật còn tại thế. Sự minh triết và đức hạnh của một vị thiền sư đã làm cho danh tiếng của Ngài vươn xa tới nhiều châu lục. Hiện nay, pháp thiền của Ngài - Thiền Minh sát tuệ - đã lan tỏa mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm A Still Forest Pool(Tâm Tĩnh Lặng), do hai môn đệ người Mỹ của Ngài là Jack Kornfield và Paul Breiter đã kết tập từ những bài giảng của Ngài và được xuất bản bằng tiếng Anh lần đầu tiên vào năm 1985. Mặc dù tác phẩm đã ra đời trên hai mươi năm, nhưng trí tuệ chân thực vẫn luôn tồn tại mãi với thời gian. Bài giảng sau đây, người dịch trích từ tác phẩm trên và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]