Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 13: Tuệ Trí

08/01/201920:41(Xem: 4870)
Chương 13: Tuệ Trí

CHƯƠNG 13:  TUỆ TRÍ

 

 

 

Thursday, October 25, 2012

 

Chúng ta bây giờ đã quen thuộc với kỷ năng để rèn luyện tâm thức chúng ta vì thế chúng ta có thể duy trì tập trung một cách hoàn hảo trên một đối tượng của thiền quán.  Khả năng này trở thành một khí cụ căn bản trong việc thẩm thấu tuệ trí, một cách đặc biệt là tánh không.  Mặc dù tôi đã nói đến tánh không suốt khắp quyển sách này, nhưng bây giờ chúng ta hãy khám phá sâu xa hơn một chút chỉ về, tánh không là gì?

 

 

TỰ NGÃ

 

Tất cả chúng ta đã có một ý nghĩa rõ ràng về tự ngã, một cảm nhận của cái "tôi".  Chúng ta biết ai chúng ta đang liên hệ đến khi chúng ta nghĩ, "Tôi sắp làm việc", "Tôi sắp về nhà", hay "Tôi đói bụng".  Ngay cả những con thú cũng có một khái niệm về tính chất của chúng, mặc dù chúng không thể biểu lộ nó trong ngôn ngữ như chúng ta.  Khi chúng ta cố gắng xác định và thấu hiểu cái "tôi" này đúng là gì, nó trở nên rất khó khăn để xác định chính xác.

 

Trong Ấn Độ cổ xưa nhiều triết gia đưa ra ý kiến rằng tự ngã này là độc lập với tâm thức và thân thể con người.  Họ cảm thấy rằng phải có một thực thể có thể cung ứng sự tương tục trong những giai tầng khác nhau của tự ngã, chẳng hạn như tự ngã "khi tôi trẻ" hay "khi tôi già" và ngay cả cái "tôi" trong kiếp trước và cái "tôi" trong một kiếp sống tương lai.  Khi tất cả những tự ngã khác nhau này ngắn ngủi nhất thời và vô thường, người ta cảm thấy rằng phải có một tự ngã đơn nhất và thường còn sở hữu những giai tầng khác nhau của đời sống.  Đây là căn bản cho việc bố trí một tự ngã khác biệt với tâm thức và thân thể.  Người ta gọi đây là atman.

 

Một cách thật sự, tất cả chúng ta nắm giữ một khái niệm như vậy về tự ngã.  Nếu chúng ta thẩm tra vấn đề chúng ta nhận thức ý nghĩa tự ngã này như thế nào, chúng ta xem nó như cốt lõi của sự hiện hữu của chúng ta.  Chúng ta không trải nghiệm nó như một tập hợp của tay, chân, đầu, và mình, nhưng đúng hơn chúng ta nghĩ về  nó như chủ nhân ông của những bộ phận này.  Thí dụ, tôi không nghĩ về tay tôi như tôi, tôi nghĩ về nó như tay của tôi; và tôi nghĩ về tâm thức tôi trong cùng cách ấy, như thuộc về tôi.  Chúng ta đi đến nhận thức rằng chúng ta tin tưởng rong một cái "tôi" tự đầy đủ và độc lập với cốt lõi của sự hiện hữu của chúng ta, sở hữu những bộ phận đã làm nên chúng ta.

 

Sự tin tường này có sai lầm gì?  Một tự ngã không thay đổi, vĩnh cửu, và đơn nhất độc lập với tâm thức và thân thể bị phủ nhận như thế nào?  Những triết gia Phật Giáo cho rằng tự ngã chỉ có thể được hiểu trong mối quan hệ trực tiếp đến phức hợp thân và tâm.  Họ giải thích rằng nếu một tự ngã tồn tại, nó hoặc là riêng biệt với những thành phần nhất thời cấu tạo nên nó, thân và tâm, hay nó sẽ phải là một với những bộ phận của nó.  Tuy nhiên, nếu nó riêng biệt với thân và tâm, thì sẽ không thích đáng, giống như nó hoàn toàn  không liên hệ với chúng.  Và để đề nghị rằng một tự ngã thường còn vô hình có thể là một với những thành phần nhất thời đã làm nên thân và tâm là buồn cười.  Tại sao?  Bởi vì tự ngã là đơn độc và vô hình, trong khi các thành phần là vô số.  Làm thế nào để một thực thể không thành phần có những thành phần? 

 

Do vậy, một cách thích đáng, bản chất của tự ngã này là gì mà chúng ta quá quen thuộc với nó?  Một số triết gia Phật Giáo chỉ tập họp những thành phần của thân và tâm và xem tổng số của chúng thôi là tự ngã.  Những người khác cho rằng sự tương tục của ý thức tinh thần phải là tự ngã.  Cũng có niềm tin rằng một số khả năng tinh thần riêng biệt nào đó, một "tâm thức căn bản cho tất cả" là tự ngã.  Tất cả những khái niệm như vậy là những cố gắng để thích nghi với sự tin tưởng bẩm sinh của chúng ta trong một tự ngã hạt nhân, trong khi biết tính không vững về sự kiên cố và thường còn mà chúng ta gán cho nó một cách tự nhiên.

 

 

TỰ NGÃ VÀ PHIỀN NÃO

 

Nếu chúng ta thẩm tra các cảm xúc của chúng ta, kinh nghiệm của chúng ta về sự luyến ái hay thù địch mạnh mẽ, chúng ta thấy rằng ở gốc rể của chúng là một sự bám víu mãnh liệt đến một nhận thức về tự ngã.  Một tự ngã như vậy chúng ta cho là độc lập và tự đầy đủ, với một thực tế vững chắc.  Khi niềm tin của chúng ta trong loại tự ngã này được tăng cường, thì mong ước của chúng ta để làm hài lòng và bảo vệ nó cũng gia tăng.

 

Tôi sẽ cho các bạn một thí dụ.  Khi chúng ta thấy một chiếc đồng hồ đeo tay xinh đẹp trong một cửa hàng, chúng ta bị hấp dẫn với nó một cách tự nhiên.  Nếu người bán hàng làm rớt chiếc đồng hồ, bạn sẽ nghĩ, "Ô, trời ơi, chiếc đồng hồ đã rơi xuống".  Tác động này đối với chúng ta sẽ không lớn lắm.  Tuy nhiên, nếu chúng ta đã mua chiếc đồng hồ và đã đi đến nghĩ nó như "chiếc đồng hồ của tôi", rồi thì, nếu bạn làm rơi nó, tác động sẽ là tàn phá.  Bạn sẽ cảm thấy giống như trái tim của bạn đã nhảy ra bên ngoài lồng ngực.  Cảm nhận dữ dội này đến từ chốn nào?  Sự bám giữ lấy sinh khởi từ cảm nhận về tự ngã.  Cảm nhận về cái "tôi" của chúng ta càng mạnh, thì cảm nhận về cái "của tôi" càng mạnh.  Đấy là tại sao thật vô cùng quan trọng để chúng ta hành động trong việc đoạn trừ sự tin tưởng trong một cái "tôi" độc lập tự đầy đủ, một tự ngã độc lập tự túc.  Một khi chúng ta có thể đặt vấn đề và làm tan rả một khái niệm về tự ngã như vậy, những cảm xúc phát xuất từ nó cũng giảm thiểu.

 

 

TÍNH VÔ NGÃ CỦA TẤT CẢ  MỌI HIỆN TƯỢNG

 

Không chỉ chúng sanh không có một tự ngã cốt lõi.  Tất cả mọi hiện tượng đều như thế.  Nếu chúng ta phân tích hay mỗ xẻ một bông hoa, tìm kiếm một bông hoa trong những bộ phận của nó, chúng ta sẽ không tìm thấy nó.  Điều này cho thấy rằng bông hoa không thật sự sở hữu một thực tế bẩm sinh.  Điều ấy cũng đúng với một chiếc xe, một cái bàn, hay một chiếc ghế.  Và ngay cả những mùi hương hay vị nếm cũng có thể phân chia ra hoặc là bằng khoa học hay sự phân tích đến điểm mà chúng ta không thể cho đấy là một mùi hương hay một vị nếm.

 

Và tuy thế, chúng ta không thể phủ nhận sự hiện hữu của những bông hoa và mùi thơm của chúng.  Chúng tồn tại như thế nào?  Một số triết gia Phật Giáo đã giải thích rằng mà ta nhận thức là khía cạnh bên ngoài của sự nhận thức về nó của chúng ta.  Nó tồn tại chỉ trong sự nhận thức về nó.  Theo sự diễn giải này, nếu có một bông hoa trên bàn giữa chúng ta, nhưng bông hoa mà ta thấy là một khía cạnh của sự nhận thức về nó của chúng ta.  Mùi thơm của bông hoa mà bạn ngửi thấy cũng sẽ tương tự như mùi hương với sự cảm nhận của bạn về mùi hương trải nghiệm hương thơm của nó.  Bông hoa tôi nhận thức sẽ là một bông hoa khác với bông hoa bạn nhận thức.  Mặc dù đây là quan điểm "duy tâm" (duy thức), như nó được gọi, giảm thiểu rất nhiều cảm nhận của chúng ta về sự thật khách quan, nhưng nó cống hiến một giá trị quan trọng lớn lao đến ý thức của chúng ta.  Trong thực tế, ngay chính tâm cũng không thật.  Được làm nên bởi những kinh nghiệm khác nhau, bị thúc đẩy bởi những hiện tượng khác nhau, một cách cứu kính nó cũng không thể được tìm thấy cũng như bất cứ hiện tượng nào khác.

 

 

TÁNH KHÔNG VÀ DUYÊN KHỞI

 

Vậy thì tánh không là gì?  Đơn giản đây là thứ không thể tìm ra.  Khi chúng ta tìm kiếm bông hoa trong những thành phần của nó, chúng ta đối diện với sự vắng mặt của một bông hoa như vậy.  Sự vắng mặt ấy là chúng ta đối diện với  tánh không của bông hoa.  Nhưng rồi thì, để tìm kiếm điểm trung tâm của bất cứ hiện tượng nào một cách căn bản là để đi đến một sự đánh giá vi tế hơn về tánh không của nó, thứ không thể tìm thấy của nó.  Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ về tánh không của một bông hoa như một vấn đề không thể tìm thấy mà chúng ta chạm trán khi tìm kiếm trong những thành phần của nó.  Đúng hơn, nó là bản chất phụ thuộc của bông hoa, hay bất cứ đối tượng nào chúng ta quan tâm đến để gọi tên, điều ấy định nghĩa hay chỉ rỏ tánh không của nó.  Đây gọi là duyên khởi.

 

Khái niệm về duyên khởi được giải thích trong những cách đa dạng bởi những triết gia Phật Giáo.  Một số định nghĩa nó chỉ đơn thuần trong sự liên hệ đến luật nhân quả.  Họ giải thích rằng vì một vật như bông hoa là sản phẩm của những nguyên nhân và điều kiện, nó sinh khởi một cách lệ thuộc.  Những người khác diễn giải sự phụ thuộc vi tế hơn.  Đối với họ một hiện tượng là phụ thuộc khi nó lệ thuộc trên những bộ phận của nó cách mà bông hoa của chúng ta lệ thuộc trên đài hoa, cánh hoa và nhụy hoa.

 

Cũng có một sự diễn giải thậm chí vi tế hơn về duyên khởi.  Trong phạm vi của một hiện tượng đơn lẻ như bông hoa và những bộ phận của nó - đài hoa, cánh hoa và nhụy hoa - và tư tưởng của chúng ta nhận thức hay đặt tên bông hoa là lệ thuộc hổ tương.  Một vật không thể tồn tại mà không có những thứ khác.  Chúng cũng là những hiện tượng riêng rẻ,  hổ tương một cách rộng rãi.  Do thế, khi sự phân tích hay tìm kiếm cho một bông hoa trong những thành phần của nó, chúng ta sẽ không tìm ra nó.  Và tuy thế, sự nhận thức về một bông hoa chỉ tồn tại trong mối quan hệ đến những thành phần làm nên nó.  Từ sự thấu hiểu này về duyên khởi đưa đến kết quả là một sự phủ nhận bất cứ ý tưởng nào về bản chất hay sự tồn tại cố hữu.

 

 

THIỀN TẬP VỀ TÁNH KHÔNG

 

Việc thấu hiểu tánh không không phải là dễ dàng.  Bao nhiên năm dành để học hỏi nó trong những đại học tu viện Tây Tạng.  Tu sĩ học thuộc những kinh điển và luận giải liên hệ của những đạo sư nổi tiếng của Ấn Độ và Tây Tạng.  Họ học hỏi với những học giả và dành nhiều giờ trong ngày để tranh luận về chủ đề.  Để phát triển sự thấu hiểu của chúng ta về tánh không chúng ta phải học hỏi cũng như quán chiếu chủ đề này.  Thật quan trọng để làm như thế dưới sự hướng dẫn của một vị thầy phẩm chất tương xứng, người mà sự thấu hiểu về tánh không của vị ấy là không còn thiếu sót.

 

Như đối với những đề tài khác trong quyển sách này, tuệ trí phải được trau dồi với thiền phân tích (quán)cũng như thiền ổn định (chỉ).  Tuy nhiên, trong trường hợp này, nhằm để làm sâu sắc hơn thực chứng của chúng ta về tánh không, chúng ta không thay đổi giữa hai loại kỷ năng này nhưng thật sự kết hợp chúng.  Chúng ta tập trung tâm thức trên sự phân tích về tánh không bằng phương tiện của tập trung nhất tâm bất loạn vừa đạt được.  Đây được gọi là sự hợp nhất tịch tĩnh bất động và tuệ giác đặc biệt.  Bằng việc hành thiền liên tục trong cách này, tuệ giác của chúng ta tiến triển vào trong một nhận thức thực chứng thật sự về tánh không.  Tại điểm này hành giả đã đạt được Con Đường Chuẩn Bị.

 

Sự thực chứng của chúng ta là nhận thức, khi sự nhận thức của chúng ta về tánh không được bắt nguồn qua suy luận hợp lý (logic).  Tuy nhiên, điều này chuẩn bị cho hành giả một kinh nghiệm thậm thâm về thực chứng tánh không vô thức.

 

Hành giả bây giờ trau dồi một cách liên tục và sâu sắc hơn thực chứng suy luận về tánh không.  Điều này đưa đến việc đạt được Con Đường Thấy Đạo.  Hành giả bây giờ thấy tánh không một cách trực tiếp, rõ ràng như vị ấy thấy những chỉ tay trên lòng bàn tay của vị ấy.

 

Bằng việc tiếp tục thiền quán về tánh không, hành giả tiến đến Con Đường Thiền Định.  Không có những phương diện mới trên hành trình cần được trau dồi.  Hành giả bây giờ liên tục phát triển và làm nổi bật kinh nghiệm về tánh không đã đạt được.

 

 

NHỮNG GIAI TẦNG CỦA BỒ TÁT

 

Một hành giả Đại Thừa bắt đầu sự tiến hóa của mình qua những giai tầng đưa đến Quả Phật tại điểm phát tâm bồ đề.  Như những hành giả chúng ta phải phát triển tất cả những phẩm chất phong phú được khám phá qua quyển sách này.  Đã có kiến thức về những hoạt động của nghiệp báo, chúng ta phải dừng những hành vi mà qua đấy chúng ta tự làm tổn hại mình và người khác.  Chúng ta phải nhận thức rằng đời sống là khổ não.  Chúng ta phải có một khát vọng sâu xa vượt khỏi nó.  Tuy nhiên, chúng ta cũng phải có nguyện vọng từ bi để giải thoát tất cả khổ não lan tràn cùng khắp của những người khác, tất cả những ai bị vướng trong vũng bùn sanh tử luân hồi.  Chúng ta phải có lòng từ ái, nguyện ước cung ứng cho mọi người hạnh phúc vi diệu.  Chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm đạt đến giác  ngộ tối thượng.

 

Đến đây hành giả đã đạt đến Con Đường Tích Lũy (tư lương vị).  Với động cơ của tâm bồ đề hành giả có thể liên hiệp nhất tâm bất loạn và tuệ giác nội quán đặc biệt (định tuệ song hành), do thế trải nghiệm thực chứng suy luận (giải ngộ) về tánh không như được diễn tả ở trên.  Hành giả bây giờ đạt đến Con Đường Chuẩn Bị (gia hạnh vị).  Trong thời gian ở Con Đường Tích Lũy và Con Đường Chuẩn Bị, một vị Bồ tát đi qua sự thực hành vô lượng kiếp thứ nhất của ba a tăng kỳ kiếp, qua đó vị ấy tích lũy vô lượng công đức và làm sâu sắc thêm tuệ trí.

 

Khi sự thực của hành giả không còn là suy luận nữa, hành giả đạt đến Con Đường Thấy Đạo (kiến đạo - hay thông đạt vị), hành giả đã đạt đến bậc thứ nhất - Hoan Hỉ Địa - trong thập địa Bồ tát dẫn đến Quả Phật.  Qua việc liên tục hành thiền về tánh không, hành giả đạt đến bậc thứ hai của thập địa Bồ tát - Ly Cấu Địa - đạt đến Con Đường Thiền Định (tu tập vị).  Khi hành giả tiến thông qua bảy địa Bồ tát, hành giả tự dâng hiến đến vô lượng kiếp thứ hai của việc tích lũy công đức và tuệ trí.  Đối với ba địa Bồ tát còn lại, hành giả kết thúc vô lượng kiếp thứ ba của việc tích tập công đức và tuệ trí, và vì thế đạt đến Con Đường Không Còn Học Hỏi Nữa (vô học - cứu kính vị).

 

Hành giả bây giờ đã là một vị Phật toàn giác.

 

Nhiều vô lượng kiếp tu tập phía trước không làm chúng ta vở mộng.  Chúng ta phải kiên nhẫn.  Chúng ta phải tiến hành từng bước vào một lúc, trau dồi mỗi khía cạnh của sự thực tập.  Chúng ta phải hổ trợ người khác trong khả năng của chúng ta, và giữ mình tránh không làm tổn hại người khác.   Khi những cung cách vị kỷ giảm thiểu và lòng vị tha chúng ta lớn mạnh, chúng ta trở nên hạnh phúc hơn, cũng như  những người chung quanh chúng ta.  Đây là việc chúng ta tích lũy công đức mà chúng ta cần để đạt đến Quả Phật như thế nào.

 

Thursday, November 01, 2012 / 14:07:46

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2020(Xem: 6639)
Tản mạn : Làm sao Chuyển hoá khổ đau ? "Khổ đau chỉ đến khi ta khởi lên ý niệm đó mà thôi ! " Nếu ai đó đã từng học được điều này thì mời các bạn cùng tôi ngâm vài vần thơ trước khi vào đề tài rất hữu ích cho thời đại công nghệ này bạn nhé ! Nhất là giới trẻ và trung niên ngày nay dù có học Phật Pháp hay đang nghiên cứu vài sách về tâm lý . Làm thế nào khổ đau được chuyển hoá ? Không lạm bàn nạn dịch với thiên tai Thẩm sâu nội tâm ... rơi lệ , thở dài Chuyện uất ức, bất mãn, thành công thất bại ! Suy cho kỹ ... Tâm phan duyên, hoang dại ! Khổ đau chỉ đến ... ý niệm khởi đó thôi Tự mình tiêu cực, sao lại phải Tôi!!! Nào tản mạn ... nuôi dưỡng được tâm thái tích cực !!! ( thơ Huệ Hương )
17/11/2020(Xem: 8028)
LỜI GIỚI THIỆU CỦA NI TRƯỞNG THƯỢNG NGUYÊN HẠ THANH Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Thánh Tổ Đại Ái Đạo Kiều Đàm Di Mẫu Kính bạch chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, quý Ni trưởng, Ni sư cùng chư Đại đức Tăng Ni, Kính thưa quý Thiện nam, Tín nữ xa gần, Thật là vinh dự cho chúng con/ chúng tôi hôm nay được viết những dòng giới thiệu này cho tuyển tập “Ni Giới Việt Nam Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ” (Sharing the Dharma - Vietnamese Buddhist Nuns in the United States) do Ni Sư Thích Nữ Giới Hương, Chùa Hương Sen, đứng ra biên soạn và xuất bản.
17/11/2020(Xem: 5790)
Nhân loại đã biết cách bay lên mặt trăng, tuy nhiên nhiều nơi trên địa cầu vẫn còn bị ràng buộc với những thói quen xưa cổ, trong đó một thành kiến khó rời bỏ là xem nhẹ phụ nữ. Hầu hết các tôn giáo cũng xem nhẹ phụ nữ. Riêng trong Phật Giáo, phụ nữ từ xưa vẫn có một vị trí đáng kính và bình đẳng trên đường học đạo, để tận cùng là thành tựu Niết Bàn. Khi vua Pasenadi nước Kosala không vui vì hoàng hậu Mallikà sinh một bé gái, Đức Phật trong Kinh SN 3.16 dạy vua rằng: "Này Nhân chủ, ở đời / Có một số thiếu nữ / Có thể tốt đẹp hơn / So sánh với con trai / Có trí tuệ, giới đức..." Hơn hai mươi thế kỷ sau, ý thức nữ quyền mới trở thành phong trào. Theo định nghĩa cô đọng và đơn giản, nữ quyền là niềm tin vào sự bình đẳng của nữ giới với nam giới về chính trị, kinh tế và văn hóa. Do vậy thường khi, nữ quyền gắn liền với dân quyền, vì bình quyền nam nữ dẫn tới ý thức bình quyền cho từng người dân, đặc biệt là nơi các dân tộc đang bị các nước thực dân thống trị, hay nơi các sắc tộc thiểu số
16/11/2020(Xem: 4805)
Vào ngày 8 tháng 11 vừa qua, Hội đồng Thống nhất Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo Bangldesh (Bangladesh Hindu Bouddha Christian Oikya Parishad; BHBCOP), đã tổ chức một chương trình tập hợp và biểu tình hàng loạt trên toàn quốc để phản đối các cuộc tấn công, đốt phá, tra tấn và giết hại người tôn giáo thiểu số tại Bangldesh. Là một phần của cuộc biểu tình, họ đã thành lập các chuỗi người và các cuộc biểu tình từ 10 giờ sáng đến 12 giờ trưa tại các giao lộ chính của các trụ sở cơ quan chính quyền cấp quận, huyện, thành phố và tỉnh trên khắp đất nước, bao gồm cả giao lộ Shahbagh, Dhaka và giao lộ ngã tư New Market, Chittagong.
16/11/2020(Xem: 5477)
Vào giữa thế kỷ thứ mười bảy, Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào để việc phân tích không trở thành một bài học thuộc lòng như vẹt mà phải là sống động. Khi chúng ta tìm kiếm cho một “cái tôi” tồn tại cụ thể như vậy mà không thể tìm kiếm được nó hoặc là cùng giống hay khác biệt với tâm thức và thân thể, điều thiết yếu là phải tìm kiếm cùng khắp; bằng khác đi chúng ta sẽ không cảm thấy tác động của việc không tìm thấy nó. Đức Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã viết:
15/11/2020(Xem: 6064)
Mười bốn câu trích dẫn lời của Đức Phật dưới đây được chọn trong số 34 câu đã được đăng tải trên trang mạng của báo Le Monde, một tổ hợp báo chí uy tín và lâu đời của nước Pháp. Một số câu được trích nguyên văn từ các bài kinh, trong trường hợp này nguồn gốc của các câu trích dẫn đó sẽ được ghi chú rõ ràng, trái lại các câu đã được rút gọn, chỉ giữ lại ý chính, sẽ không có chú thích về nguồn gốc. Ngoài ra trong bài 1 trước đây, người chuyển ngữ đã mạn phép ghi chú dài dòng với hy vọng có thể giúp một vài độc giả theo dõi dễ dàng hơn chăng các lời trích dẫn đôi khi khá cô đọng hoặc trừu tượng? Dầu sao thiết nghĩ sự suy tư và phán đoán là quyền hạn ưu tiên và thiêng liêng của người đọc, vì lý do đó kể từ bài 2 này, người chuyển ngữ sẽ mạn phép chỉ xin ghi chú thêm một vài suy nghĩ riêng của mình khi cảm thấy cần thiết. Độc giả có thể xem bản gốc tiếng Pháp của các câu trích dẫn này trên trang mạng của báo Le Monde: https://dicocitations.lemonde.fr/auteur/616/Bouddh
14/11/2020(Xem: 6462)
Kính mạn phép được thay đổi lại lời của một bài hát mà âm điệu đã thấm sâu vào huyết quản tôi từ bao giờ và hôm nay một lần nữa lại vang vang ...nửa như kích thích sự hưng phấn trong tôi nửa như khuyến khích tôi phải trình bày vì sao tôi thấy ra được điều này " Một niềm an vui hạnh phúc hỷ lạc thật sự có mặt và có thật trong mỗi con người chúng ta "
13/11/2020(Xem: 5165)
Từ khi có Lục tổ Huệ Năng đưa ra lý thuyết chúng sanh có sẳn Tánh Giác gọi là Phật Tánh trong người nhưng vì bị Ý thức che mờ đi nên cần ngồi thiền vén lớp ý thức này ra thì Phật tánh sẽ hiện ra thành Phật nên không cần kinh luật bất lập văn tự mà tu. Rất nhiều người bình dân phương nam đi theo một thời đông đảo. Câu hỏi được đặt ra là tánh giác này có trước hay sau ý thức? Thế nên mới đưa ra kế tiếp là giác ngộ rồi mới khởi tu tức là học kinh Phật. Vì Giác ngộ đến Giải thoát sinh tử là một chặng đường rất dài có khi rất nhiều kiếp cần trãi nghiệm. Vậy chúng ta nghiên cứu giác ngộ trước.
13/11/2020(Xem: 4815)
Nhân khi đọc bài Thành Tựu Niết bàn của Cư sỹ Nguyên giác Phan Tấn Hải, chúng tôi xin phép kết hợp với thuyết big bang của Stephen Hawking và tiến trình giác ngộ của Đức Phật, và sự sống và chết theo Phật giáo để luận bàn về Niết bàn, giải đáp thắc mắc đức Phật chết rồi đi về đâu? Đây chỉ là khởi niệm mới lạ, biết đâu tương lai sẽ có người chứng minh được.
13/11/2020(Xem: 4759)
Phương tây từ thế kỷ thứ 18 đã từng phát huy cái ngã cái tôi của con người như “tôi suy tư là tôi hiện hữu”. Từ đó đến nay người Phuơng tây phát triển cái tôi, đưa đến tôn trọng cái tính riêng biệt cũa cái tôi từ triết lý đến luật pháp. Nhưng đạo phật lại diệt ngã thì làm sao mà hoằng pháp cho người Phương tây tu theo phật được? Làm sao giải thích được ý nghĩa diệt ngã của đức Phật? Vậy ta có thể giải thích là không phải ngã? Khi người ngồi thiền định dưới cội bồ đề 49 ngày, người đạt giác ngộ và đập tay xuống đất mà nói ta đạt được chánh đẵng chánh giác do trời chứng , ta chứng và đất chứng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]