Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 11: Nhất Tâm Bất Loạn

08/01/201920:37(Xem: 3374)
Chương 11: Nhất Tâm Bất Loạn

CHƯƠNG 11:  NHẤT TÂM BẤT LOẠN

 

 

Tuesday, October 23, 2012

 

Nhất tâm bất loạn hay tịch tĩnh bất động, là một hình thức hành thiền qua đấy ta chọn một đối tượng và tập trung vào đấy.  Mức độ tập trung này không phải được đạt đến trong một lần ngồi thiền!  Ta phải rèn luyện tâm thức bằng những mức độ.  Một cách chậm chạp, chúng ta thấy rằng tâm thức có thể có một sự tập trung chú tâm lớn dần lên.  Nhất tâm bất loạn là một thể trạng kiên định mà trong ấy tâm thức chúng ta có thể duy trì tập trung trên một đối tượng tinh thần lâu như chúng ta mong ước, với một sự tĩnh lặng tự do khỏi mọi xao lãng.

 

Trong sự thực tập hành thiền này, cũng như đối với tất cả những thứ khác, động cơ một lần nữa là quan trọng bậc nhất.  Kỷ năng thiện nghệ được liên hệ trong việc tập trung trên một đối tượng duy nhất có thể được sử dụng đến nhiều kết cuộc đa dạng.  Đấy là một sự tinh thông kỷ năng thuần nhất, và biểu hiện của nó được quyết định bởi động cơ của chúng ta.  Một cách tự nhiên, như những hành giả tâm linh, chúng ta bị hấp dẫn bởi một động cơ đức hạnh và một kết cuộc đạo đức.  Bây giờ chúng ta hãy phân tích những khía cạnh kỷ năng của sự thực tập này.

 

Nhất tâm bất loạn được thực tập bởi những thành viên của nhiều tín ngưỡng.  Một thiền giả bắt đầu tiến trình rèn luyện tâm thức bằng việc chọn một đối tượng hành thiền.  Một hành giả Ki Tô Giáo có thể chọn thánh giá hay Thánh Mẫu Maria như điểm duy nhất của việc hành thiền.  Có thể khó hơn cho một hành giả Hồi Giáo bởi vì việc thiếu vắng một hình tượng trong Hồi Giáo, mặc dù hành giả có thể đặt niềm tin của mình vào Thánh Allah, vì đối tượng của thiền tập không nhất thiết là một đối tượng vật lý hay ngay cả là một đối tượng của thị giác.  Do thế, chúng ta có thể duy trì sự tập trung của mình trên một niềm tin sâu sắc trong Thượng Đế.  Chúng ta cũng có thể tập trung vào thành phố thánh địa Mecca.  Kinh luận Phật Giáo thường sử dụng hình tượng của Đức Phật Thích Ca như một điển hình của một đối tượng cho sự tập trung.  Một trong những lợi ích của điều này là nó cho phép sự tĩnh thức về những phẩm chất của Đức Phật tăng trưởng, cùng với lòng cảm kích về sự ân cần của Ngài.  Kết quả là một cảm nhận lớn hơn về sự gần gũi với Đức Phật.

 

Hình tượng của Đức Phật mà chúng ta tập trung trong sự hành thiền này không nên là một bức ảnh hay một hình tượng.  Mặc dù chúng ta có thể sử dụng một hình tượng vật chất để làm quen thuộc chính mình với với những đường nét và sự cân xứng của Đức Phật, nhưng đây là một hình tượng tinh thần của Đức Phật mà chúng ta phải tập trung.  Sự quán tưởng Đức Phật phải được gợi lên từ trong tâm thức chúng ta.  Một khi đã được như thế, tiến trình tịch tĩnh bất động có thể bắt đầu.

 

Đức Phật mà chúng ta quán tưởng không được quá xa cũng không được gần quá hành giả.  Khoảng bốn bộ (một thước hai) trực tiếp  trước mặt hành giả, khoảng tầm chân mày, là đúng. Kích cở hình tượng chúng ta quán tưởng phải cao ba hay bốn inches (7 đến 10 tấc) hay nhỏ hơn.  Thật hữu ích để quán tưởng một hình tượng nhỏ, dường như hoàn toàn rực sáng, giống như làm bằng ánh sáng.  Việc quán tưởng một hình tượng sáng rực giúp tiêu mòn khuynh hướng tự nhiên đối với hôn trầm hay uể oải.  Mặt khác, hành giả nên cố gắng để tưởng tượng hình tượng này như hết sức nặng nề.  Nếu hình tượng Đức Phật được nhận thức có một loại sức nặng nào đó, thế thì thiên hướng đối với sự bồn chồn tinh thần có thể được ngăn chặn.

 

Bất cứ đối tượng thiền quán được chọn lựa là gì, sự tập trung nhất tâm bất động phải được có những phẩm chất của ổn định và rõ ràng.  Sự ổn định bị làm xói mòn bởi trạo cử, phẩm chất tán loạn, và xao lảng của tâm thức là một khía cạnh của dính mắc hay luyến ái.  Tâm thức dễ dàng bị xao lãng bởi những tư tưởng của các đối tượng tham luyến.  Những tư tưởng như vậy cản trở chúng ta phát triển phẩm chất ổn định, tịnh trụ cần thiết cho chúng ta an trú một cách thật sự và tĩnh lặng trên đối tượng mà ta đã chọn lựa.  Sự rõ ràng, về mặt khác, bị cản trở hơn nữa bởi giải đải tinh thần, là điều đôi khi được gọi là một phẩm chất chìm đắm của tâm thức.

 

Việc phát triển nhất tâm bất loạn đòi hỏi mà chúng ta tự dâng hiến đến tiến trình một cách hoàn toàn cho đến khi chúng ta làm chủ được nó.  Một môi trường tĩnh lặng, yên ắng, được nói là cần thiết, như đang có những người bạn hổ trợ.  Chúng ta phải đặt qua một bên những bận tâm trần tục - gia đình, thương vụ, hay những liên hệ xã hội - và dâng hiến chính mình một cách toàn bộ đến việc phát triển tập trung.  Vào lúc khởi đầu, tốt nhất là tiến hành trong nhiều thời hành thiền ngắn trong suốt cả ngày.  Khoảng mười đến hai mươi thời hành thiền giữa mười lăm và hai mươi phút mỗi lần là thích hợp.  Khi sự tập trung phát triển, chúng ta có thể mở rộng chiều dài những thời tu tập và giảm thiểu sự thường xuyên của chúng.  Hành giả nên ngồi trong một tư thế hành thiền nghi thức, với lưng thẳng đứng.  Nếu chúng ta theo đuổi sự thực hành một cách cần mẫn, thật có thể đạt đến nhất tâm bất loạn trong vòng sáu tháng.

 

Một thiền giả phải học hỏi để áp dụng những phương pháp đối trị với những chướng ngại khi chúng xảy ra.  Khi tâm thức dường như đang hưng phấn và bắt đầu lái sang một ký ức vui sướng hay nghĩa vụ thúc bách nào đó, phải nắm bắt lấy nó và trở lại tập trung trên đối tượng đã chọn lựa.  Chánh niệm, một lần nữa, là khí cụ để làm việc này.  Khi ta lần đầu tiên bắt đầu phát triển nhất tâm bất loạn, thật khó khăn để giữ tâm thức đặt trên đối tượng hơn một khoảnh khắc.  Bằng phương tiện chánh niệm chúng ta tái định  hướng tâm thức, trở lại đối tượng hết lần này đến lần khác.  Một khi tâm thức được tập trung trên đối tượng của nó, chính là với chánh niệm, tâm thức được an trụ ở đấy, mà không bị xao lãng.

 

Việc xem xét nội tâm bảo đảm rằng sự tập trung của chúng ta duy trì ổn định và rõ ràng.  Bằng phương pháp nội quán chúng ta có thể nắm bắt tâm thức khi nó trở nên trạo cử hay tán loạn, nhanh chóng đem tâm thức trở lại đối tượng trong tầm tay.  Đây là một vấn đề phổ thông cho những ai vốn đắm mê.  Việc hành thiền trở nên quá lỏng lẻo, thiếu sức mạnh.  Việc xem xét nội tâm cẩn mật có thể cho phép chúng ta nâng dậy tâm thức với những tư tưởng của bản chất hoan hỉ, do thế gia tăng sự trong sáng và nhạy bén tinh thần.

 

Khi chúng ta bắt đầu trau dồi tịch tĩnh bất động, vấn đề nhanh chóng rõ ràng rằng việc duy trì sự tập trung của chúng ta trên đối tượng chọn lựa trong một thời gian ngắn cũng là một thử thách.  Đừng chán nản.  Chúng ta thấy đây là mộ dấu hiệu tích cực bởi vì cuối cùng đã trở nên tỉnh thức với những hành vi cực độ của tâm thức.  Bằng việc kiên nhẫn trong sự thực tập và khéo léo áp dụng chánh niệm và nội quán, chúng ta trở nên có thể kéo dài thời gian của tập trung nhất tâm bất loạn, sự tập trung trên đối tượng chọn lựa, trong khi cũng duy trì sự tỉnh giác, sự sinh động và sự sáng suốt của tư tưởng.

 

Có nhiều loại đối tượng, vật chất và khái niệm, có thể được sử dụng để phát triền sự tập trung nhất tâm bất loạn.  Chúng ta có thể trau dồi tịch tĩnh bất động bằng việc lấy chính thức như sự tập trung của việc hành thiền.  Tuy nhiên, thật không dễ có một khái niệm rõ ràng về thức là gì, khi sự thấu hiểu này không thể mang đến bằng một sự diễn tả đơn thuần bằng lời nói.  Một sự thấu hiểu chân thật về bản chất của tâm thức phải đến từ kinh nghiệm.

 

Sự thấu hiểu này có thể được trau dồi như thế nào?  Trước nhất, chúng ta phải nhìn một cách kỷ lưỡng về kinh nghiệm của ta về các tư tưởng và cảm xúc.   Cung cách ý thức sinh khởi trong chúng ta, cung cách tâm thức hoạt động.  Hầu hết mọi trường hợp chúng ta trải nghiệm tâm hay thức qua sự tương tác của chúng ta với thế giới bên ngoài - ký ức của chúng ta và những phóng chiếu tương lai của chúng ta.   Chúng ta có cáu kỉnh vào buổi sáng không?  Có choáng váng vào buổi tối không? Chúng ta có bị ám ảnh bởi một mối quan hệ thất bại không?  Lo lắng về sức khỏe của con trẻ không?  Hãy đặt tất cả những thứ này qua một bên.  Bản chất thật sự của tâm là một kinh nghiệm trong sáng của sự hiểu biết, đã bị chướng ngại trong những trải nghiệm thông thường của chúng ta.  Khi hành thiền trên tâm thức, chúng ta phải cố gắng để duy trì sự tập trung trên thời khắc hiện tại.  Chúng ta  phải ngăn ngừa việc nhớ lại những trải nghiệm quá khứ gây trở ngại cho việc quán chiếu của chúng ta.  Tâm thức không nên hướng về quá khứ, cũng không bị ảnh hưởng bởi những hy vọng hay sợ hãi về tương lai.  Một khi chúng ta ngăn ngừa những tư tưởng như vậy gây trở ngại cho việc tập trung của chúng ta, những gì còn lại là khoảng cách giữa các ký ức của kinh nghiệm quá khứ và những tiên liệu cùng vọng tưởng của tương lai.  Khoảng cách này là chân không.  Chúng ta phải hành động với việc duy trì sự tập trung của chúng ta thích đáng trên chân không này.

 

Khởi đầu, kinh nghiệm của chúng ta trên khoảng cách không gian này chỉ thoáng qua.  Tuy nhiên, khi chúng ta tiếp tục thực hành, chúng ta trở nên có thể kéo dài nó ra.  Trong việc làm như thế, chúng ta quét sạch những tư tưởng làm chướng ngại sự biểu hiện bản chất thật sự của tâm.  Dần dần, sự hiểu biết thuần khiết có thể soi sáng qua.  Với việc thực hành, khoảng cách ấy có thể rộng lớn hơn và rộng lớn hơn, cho đến khi nó trở nên có thể cho chúng ta biết thức là gì.  Thật quan trọng để thấu hiểu rằng kinh nghiệm của khoảng cách tinh thần - thức trỗng rỗng tất cả những tiến trình tư tưởng - không phải là một loại tâm thức ngây ngơ không có thần.  Nó không phải là những gì chúng ta trải nghiệm trong giấc ngủ sâu không mộng mị hay khi người nào đó bị ngất xỉu.

 

Vào lúc khởi đầu việc hành thiền, hành giả phải nói với chính mình, "Tôi sẽ không cho phép tâm thức tôi bị xao lãng bởi những tư tưởng của tương lai, những tiên liệu, hy vọng, hay sợ hãi, tôi cũng không để tâm thức tôi dong ruỗi với những ký ức trong quá khứ.  Tôi sẽ duy trì sự tập trung trong khoảnh khắc hiện tại này".  Một  khi chúng ta đã trau dồi một ý chí như vậy, chúng ta lấy khoảng không gian giữa quá khứ và tương lai như một đối tượng của thiền tập và đơn giản duy trì sự tỉnh thức của chúng ta về nó, tự do khỏi bất cứ tiến tình nhận thức tư tưởng nào.

 

 

HAI TRÌNH ĐỘ CỦA TÂM THỨC

 

Bản chất tâm thức có hai trình độ.  Trình độ thứ nhất là kinh nghiệm trong sáng về sự hiểu biết vừa được diễn tả.   Trình độ thứ hai và bản chất cứu kính của tâm được trải nghiệm với việc thực chứng sự vắng mặt sự tồn tại cố hữu của tâm.   Nhằm để phát triển tập trung nhất tâm bất loạn trên bản chất cứu kính của tâm, chúng ta khởi đầu với trình độ thứ nhất của tâm - kinh nghiệm trong sáng của hiểu biết - như thiền tập trung.  Một khi sự tập trung ấy đạt được, sau đó chúng ta quán chiếu việc vắng mặt sự tồn tại cố hữu của tâm.  Những gì sau đó xuất hiện đến tâm thật sự là tánh không hay việc vắng mặt bất cứ sự tồn tại thực chất nào của tâm.

 

Đấy là bước thứ nhất.  Sau đó, chúng ta lấy tánh không này như đối tượng của sự tập trung.  Điều này rất khó khăn, và là một hình thức thử thách của việc hành thiền.  Như được nói, một hành giả với năng lực cao nhất trước hết phải trau dồi một sự thấu hiểu về tánh không và sau đó, trên căn bản của sự thấu hiểu này, hãy sử dụng chính tánh không như đối tượng của thiền quán.  Tuy nhiên, thật hữu ích để có một phẩm chất nào đó của tịch tĩnh bất động để sử dụng như một khí cụ trong việc đi đến thấu hiểu tánh không trong một trình độ sâu xa hơn.

 

Thursday, October 25, 2012 / 11:06:17 AM

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/03/2022(Xem: 2632)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu. Hôm nay tôi sẽ viết về các loại Tình: tình bạn, tình người, tình yêu, thình thương, tình cảm v.v… Nếu viết bằng chữ Hán về chữ Tình nầy thì bên trái viết bộ tâm đứng, có nghĩa là những tình nầy đều khởi đi từ tâm của mỗi con người; bên phải viết chữ thanh là màu xanh hay cũng còn có ý là rõ ràng, trong sáng v.v…, hai chữ nầy ghép lại gọi là chữ Tình. Sau nầy tiếng Việt chúng ta dùng chữ tình yêu, tình cảm, tình thương, tình ý v.v…cũng đều sử dụng chữ tình nầy để ghép chung vào chữ Nôm của chúng ta, trở thành tiếng Việt thuần túy.
04/03/2022(Xem: 2334)
Xin khép lại những phiền muộn của năm cũ với nhiều nỗi đau thương mất mát và ly biệt, niềm thương cảm cho người thân, thầy bạn mãi mãi rời xa chúng ta. Trong bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào, ta vẫn nghĩ, dù sao đó là những chuyện đã qua, năm mới với nhiều hy vọng mới, tư duy mới và một cuộc hành trình mới đang chờ chúng ta phía trước. Xin bạn hãy khép lại những lo âu phiền muộn, lau khô những giọt nước mắt cho những mối tình hay những cuộc hôn nhân đổ vỡ, rồi cũng sẽ có người phù hợp với bạn, sẻ chia vui buồn trong cuộc sống của bạn. Sự chân thành sẽ tồn tại quanh bạn, những giọt nước mắt sẽ giúp bạn hiểu được cuộc đời này, rồi niềm vui sẽ đến, những trở ngại giúp bạn biết nâng niu cuộc sống.
02/03/2022(Xem: 6319)
CHÁNH PHÁP Số 124, tháng 3.2022 Hình bìa của Kranich17 (Pixabay.com) NỘI DUNG SỐ NÀY: THƯ TÒA SOẠN, trang 2 TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 XUÂN VỀ (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 6
01/03/2022(Xem: 3908)
Những ngày gần đây, dường như chánh niệm đang lan tỏa khắp mọi nơi. Khi tìm kiếm trên Google mà tôi đã thực hiện vào tháng 1 năm 2022 cho cụm từ "Chánh niệm" (Mindfulness) đã thu được gần 3 tỷ lượt truy cập. Phương pháp tu tập thiền chánh niệm này hiện được áp dụng thường xuyên tại các nơi làm việc, trường học, văn phòng nhà tâm lý học và các bệnh viện trên khắp cả nước Mỹ.
01/03/2022(Xem: 3875)
Hàng trăm đồ tạo tác vật phẩm văn hóa Phật giáo đã bị đánh cắp hoặc phá hủy sau cuộc quân sự Taliban tấn công và tiếp quản Chính quyền Afghanistan ngày 15 tháng 08 năm 2021. Hôm thứ Ba, ngày 22 tháng 02 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết, Hợp chúng quốc đã hạn chế các vật phẩm văn hóa Phật giáo và lịch sử từ Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, với hy vọng ngăn chặn "những kẻ khủng bố" kiếm lợi, nhưng các chuyên gia bày tỏ lo ngại về những hậu quả không mong muốn.
24/02/2022(Xem: 2538)
Nhà kiến tạo hòa bình, nhà tâm lý học, nhà cải cách xã hội học, nhà giáo dục và Phật giáo Dấn thân nổi tiếng, người Mỹ và được trên thế giới kính trọng, Tiến sĩ Phật tử Paula Green sinh vào ngày 16 tháng 12 năm 1937 tại Hoa Kỳ, đã thanh thản trút hơi thở từ giã trần gian vào ngày 21 tháng 2 năm 2022, hưởng thọ 84 tuổi.
24/02/2022(Xem: 2526)
Tôi học mãi Phẩm 6 về “ Người Hiền Trí “trong kinh Pháp Cú và bài thứ tư trong kinh Trung Bộ “ Sợ Hãi và Khiếp Đảm “ mà vẫn không chán vì càng học càng thấy nhiều lợi ích để tu tập và sửa đổi những tật xấu và lỗi lầm của mình trên đường tu học nhất là khi mình được một đại phước duyên gần gũi một bậc hiền trí . Thú thật ….trong những năm tự nhốt mình trong tháp ngà tôi đã nghiên cứu Thiền, Tịnh, Mật, rất cẩn thận từ ghi chép, nghe nhiều pháp thoại, so sánh kinh sách nhiều tông phái …thế nhưng chưa bao giờ như lúc này tôi cảm nghiệm lời dạy Đức Phật lại thâm huyền và siêu việt hơn bao giờ hết khi phối hợp hai phẩm này trong hai bộ kinh căn bản nhất cho những ai bước trên đường Đạo . Trộm nghĩ dù với tuổi nào khi chưa hoàn tất hay gặt hái được mục đích thành tựu của Trí Tuệ ( DUY TUỆ THỊ NGHIÊP) thì chúng ta hãy cứ bước đi mà chẳng nên dừng lại .
24/02/2022(Xem: 5886)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
22/02/2022(Xem: 3453)
Trong lịch sử, các đại dịch đã buộc nhân loại phải đoạn tuyệt với quá khứ và hy vọng ở tương lai thế giới mới của họ. Điều này không có gì khác lạ. Nó là một cổng thông tin, một cửa ngõ, giữa thế giới đương đại và thế giới tương lai. Nhà văn, nhà tiểu luận, nhà hoạt động người Ấn Độ Arundhati Roy, Đại dịch là một cổng thông tin
21/02/2022(Xem: 2360)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là một đề tài thuyết giảng quen thuộc. Do đó đôi khi chúng ta cũng có cảm tưởng là mình hiểu rõ khái niệm này, thế nhưng thật ra thì ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý rất sâu sắc và thuộc nhiều cấp bậc hiểu biết khác nhau. Bài chuyển ngữ dưới đây đặc biệt nhấn mạnh đến nguồn gốc vô minh tạo ra mọi thứ khổ đau cho con người, đã được nhà sư Tây Tạng Guéshé Lobsang Yésheé thuyết giảng tại chùa Thar Deu Ling, một ngôi chùa tọa lạc tại một vùng ngoại ô thành phố Paris, vào ngày 16 và 30 tháng 9 năm 2004. Bài giảng được chùa Thar Deu Ling in thành một quyển sách nhỏ, ấn bản thứ nhất vào năm 2006.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567