Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 07: Bi mẫn

08/01/201919:29(Xem: 4629)
Chương 07: Bi mẫn

CHƯƠNG 7:  BI MẪN

 

 

 

Wednesday, October 17, 2012

 

BI MẪN LÀ GÌ?  Bi mẫn là nguyện ước rằng những người khác được thoát khỏi khổ não.  Chính do ý nghĩa của bi mẫn mà chúng ta ngưỡng vọng đạt đến giác ngộ.  Chính bi mẫn đã truyền cảm hứng để chúng ta dấn thân trong những thực hành đức hạnh để đưa đến Quả Phật.  Chúng ta do thế phải dâng hiến mình trong việc phát triển bi mẫn.

 

LÒNG TRẮC ẨN (sự thấu cảm)

 

Trong bước đầu tiên đối với một trái tim bi mẫn, chúng ta phải phát triển lòng trắc ẩn hay sự gần gũi của chúng ta đối với người khác.  Càng gần gũi đến một người, chúng ta càng thấy nổi khổ não của người kia là không thể chịu đựng nổi. Sự gần gũi mà tôi nói tới không phải là trạng thái gần kề của không gian, cũng không cần phải là một thứ cảm xúc.  Đấy là một cảm nhận của trách nhiệm, của quan tâm cho một con người.  Nhằm để phát triển một sự gần gũi như thế, chúng ta phải quán chiếu trên những đức hạnh của lòng yêu mến cho sự cát tường của những người khác.  Chúng ta phải đi đến việc thấy rằng vấn đề này sẽ mang đến cho con người một niềm hạnh phúc nội tại và sự hòa bình của tâm hồn như thế nào.  Chúng ta phải đi đến việc nhận ra vấn đề người khác tôn trọng và thích chúng ta như thế nào như kết quả của một thái độ như vậy đối với họ.  Chúng ta phải quán chiếu những nhược điểm của lòng vị kỷ, thấy vấn đề nó làm cho chúng ta hành động trong những cung cách bất thiện như thế nào và vấn đề sự may mắn hiện tại của chính chúng ta đã lợi dụng trên những người kém may mắn hơn như thế nào.

 

Thật cũng quan trọng trong vấn đề chúng ta quán chiếu trên lòng tử tế của các  người khác.  Việc nhận ra này cũng là hoa trái của việc trau dồi sự thấu cảm.  Chúng ta phải nhận ra vấn đề sự may mắn của chúng ta thật sự lệ thuộc trên sự hợp tác và đóng góp của những người khác như thế nào.  Mỗi phương diện của sự cát tượng hiện tại của chúng ta là qua sự làm việc khó nhọc trên bộ phận của những người khác.  Khi chúng ta nhìn chung quanh chúng ta vào những tòa nhà chúng ta đang sống và làm việc, những con đường chúng ta du lịch, áo quần chúng ta đang mặc, hay thực phẩm chúng ta ăn, thì chúng ta phải hiểu rằng tất cả đã được cung ứng bởi những người khác.  Không một thứ nào trên đây hiện hữu cho chúng ta thụ hưởng hữu ích mà không phải là do lòng tử tế của rất nhiều người chúng ta không biết đem đến cho chúng ta.  Khi chúng ta quán chiếu trong thái độ này, lòng cảm kích của chúng ta đối với người khác lớn mạnh, cũng như lòng trắc ẩn và sự gần gũi đối với họ.

 

Chúng ta phải hành động để nhận ra sự phụ thuộc của chúng ta trên những ai mà đối với họ ta cảm thấy bi mẫn.  Nhận thức này đem họ ngay cả thân mật hơn.  Nó đòi hỏi sự chú ý liên tục để thấy những người khác qua đôi kính ít vị kỷ hơn.  Chúng ta phải làm việc trong nhận thức sự tác động vô biên của họ trong sự cát tường của chúng ta.  Khi chúng ta cưởng lại việc theo đuổi một quan điểm vị kỉ về thế giới, chúng ta có thể thay thế nó với một thế giới quan chú ý đến tất cả mọi chúng sanh.

 

Chúng ta không nên mong đợi quan điểm của chúng ta về người khác thay đổi một cách đột ngột.

 

 

NHẬN THỨC NỔI KHỔ NÃO CỦA NGƯỜI KHÁC

 

Sau lòng trắc ẩn và việc phát triển sự gần gũi, sự thực tập quan trọng tiếp theo trong việc trau dồi lòng bi mẫn của chúng ta là một tuệ giác nội quán vào trong bản chất của khổ não.  Lòng bi mẫn của chúng ta cho tất cả chúng sanh phải được phát sinh từ một nhận thức về nổi khổ não của họ.  Một vấn đề rất đặc biệt đối với việc quán chiếu khổ não là nó có khuynh hướng năng động hơn và hiệu quả hơn nếu chúng ta tập trung trên nỗi khổ não của chính chúng ta và sau đó mở rộng nhận thức ấy đến nổi khổ của người khác.  Lòng bi mẫn của chúng ta cho người khác lớn mạnh khi nhận thức của chúng ta về khổ não của người khác hiện hữu.

 

Tất cả chúng ta thông cảm một cách tự nhiên đối với ai đấy đang chịu đựng khổ não biểu hiện của một chứng bệnh đau đớn hay sự mất mát người thân.  Đây là một loại khổ não, trong Đạo Phật gọi là khổ não của khổ não (khổ khổ).

 

Thật khó khăn hơn để cảm thấy bi mẫn cho người nào đó trải nghiệm những gì Phật Giáo liên hệ như khổ não của thay đổi (hoại khổ), điều mà trong những dạng thức thế gian sẽ là những trải nghiệm của sung sướng chẳng hạn như sự thụ hưởng danh tiếng hay giàu sang.   Đây là một loại khổ não thứ hai.  Khi chúng ta thấy những người thụ hưởng sự thành công thế gian, đúng hơn là cảm nhận bi mẫn bởi vì chúng ta biết rằng nó cuối cùng sẽ chấm dứt, để lại cho họ trải nghiệm chán chường với sự mất mát, thường thì phản ứng của chúng ta là cảm thấy ngưỡng mộ và đôi khi ngay cả ganh tỵ.  Nếu chúng ta có một sự thấu hiểu chân thành về khổ não và bản chất của nó, chúng ta sẽ nhận ra rằng trải nghiệm của danh tiếng và giàu sang là tạm bợ như thế nào và vấn đề sự sung sướng mà chúng mang đến tự nhiên sẽ chấm dứt, làm cho người ta khổ não.

 

Cũng có một trình độ thứ ba và thâm sâu hơn về khổ não, là thứ vi tế hơn (hành khổ).  Chúng ta trải nghiệm sự khổ não này một cách liên tục, như một sản phẩm phụ của vòng sanh tử luân hồi.  Chính là trong bản chất của sanh tử luân hồi mà chúng ta liên tục ở dưới sự khống chế của các cảm xúc và tư tưởng tiêu cực.  Và cho đến khi mà chúng ta ở dưới sự khống chế của chúng, chính sự tồn tại này là một hình thức của khổ não.  Trình độ khổ não này lan tỏa khắp đời sống của chúng ta đưa chúng ta trải qua hết vòng này đến vòng khác quanh quẩn trong vòng vây của các cảm xúc tiêu cực và những hành vi bất thiện.  Tuy nhiên, hình thức khổ não này thật khó để nhận ra.  Nó không phải là tình trạng khổ não chứng cứ mà chúng ta thấy trong khổ não của khổ não.  Nó cũng không phải là sự đối lập của những điều may mắn và cát tường của chúng ta, khi chúng ta thấy trong khổ não của sự thay đổi.  Tuy nhiên, sự khổ não lan tỏa cùng khắp là rất sâu sắc.  Nó len lõi khắp mọi khía cạnh của đời sống.

 

Một khi chúng ta đã trau dồi một sự thấu hiểu thâm sâu về ba trình độ của khổ não trong kinh nghiệm cá nhân chính chúng ta, thật dễ dàng hơn để chuyển hướng tập trung trên người khác và phản chiếu trên ba trình độ này.  Từ đấy chúng ta có thể phát triển nguyện ước họ được giải thoát khỏi tất cả mọi khổ não.

 

Một khi chúng ta có thể kết hợp cảm nhận của lòng trắc ẩn cho người khác với một sự thấu hiểu thâm sâu về nổi khổ não mà họ trải nghiệm, chúng ta trở thành có thể phát sinh một lòng bi mẫn chân thành cho họ.  Chúng ta phải làm việc với điều này một cách liên tục.  Chúng ta có thể so sánh tiến trình này với cung cách mà trong ấy chúng ta bắt đầu một ngọn lửa bằng việc cọ hai que vào nhau.  Để đi đến điểm cháy âm ỉ, chúng ta biết rằng chúng ta phải duy trì sự cọ xát tương tục để gia tăng nhiệt độ đến điểm gỗ có thể bắt lửa.  Tương tự thế, khi chúng ta hành động với sự phát triển những phẩm chất tinh thần chẳng hạn như bi mẫn, chúng ta phải áp dụng những kỷ năng tinh thần một cách cần mẫn cần thiết để đem đến hiệu quả mong muốn.   Tiến hành điều này trong một cung cách may rũi thì không có lợi ích thật sự.

 

 

LÒNG TỪ ÁI

 

Giống như bi mẫn là nguyện ước tất cả chúng sanh được giải thoát khỏi khổ não, từ ái là nguyện ước tất cả được thụ hưởng hạnh phúc.  Cũng như với bi mẫn, khi trau dồi từ ái, điều quan trọng là bắt đầu bằng việc lấy một cá nhân đặc thù như một sự tập trung của việc hành thiền, và sau đó mở rộng phạm vi việc quan tâm của chúng ta xa  hơn và xa hơn, đến cuối cùng bao hàm và ôm ấp tất cả chúng sanh.  Lần nữa, chúng ta bắt đầu bằng việc đem ra một người trung tính, một người không cho ta những cảm giác mạnh mẽ, như chủ đề hành thiền của chúng ta.  Sau đó chúng ta mở rộng việc thiền quán này đến những cá nhân bè bạn và thành viên gia đình và một cách căn bản, những kẻ thù đặc biệt của chúng ta.

 

Chúng ta phải sử dụng một cá nhân thật sự như sự tập trung thiền quán của chúng ta, và rồi thì làm nổi bật lòng bi mẫn và từ ái của chúng ta đối với người ấy vì thế chúng ta có thể trải nghiệm thật sự lòng bi mẫn và từ ái đối với những người khác.  Chúng ta làm việc trên một người trong một thời gian.  Bằng khác đi, chúng ta có thể kết thúc việc thiền quán về bi mẫn đối với tất cả trong một cảm nhận tổng quát, không có sự tập trung hay năng lực đặc thù đối với sự thiền quán của chúng ta.  Thế rồi. khi chúng ta thật sự liên hệ loại thiền quán này đến những cá nhân đặc thù nào đó mà chúng ta không thích, chúng ta thậm chí có thể nghĩ, "Ô, người ấy là một ngoại lệ."

 

Wednesday, October 17, 2012 / 14:57:52


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4536)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7355)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4765)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5310)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10282)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9033)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6109)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8796)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4978)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]