Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 06: Sự Bao La Và Thậm Thâm: Hai Khía Cạnh Của Con Đường

08/01/201919:27(Xem: 4807)
Chương 06: Sự Bao La Và Thậm Thâm: Hai Khía Cạnh Của Con Đường
 

CHƯƠNG 6:  SỰ BAO LA VÀ THẬM THÂM: HAI KHÍA CẠNH CỦA CON ĐƯỜNG

 

Tuesday, October 16, 2012

 

Dọc theo hành trình tâm linh trong Đạo Phật, có hai khía cạnh của con đường phản chiếu hai loại thực hành riêng biệt mà chúng ta phải dấn thân.  Mặc dù Đức Phật nói cả hai, nhưng chúng đã trải qua hàng thế kỷ từ thầy đến trò trong hai hệ thống truyền thừa riêng biệt.  Tuy nhiên, giống như hai cánh của con chim, cả hai đều cần thiết khi chúng ta dấn mình vào hành trình đến giác ngộ, đấy là thể trạng mà chúng ta giải thoát khỏi khổ não cho riêng mình mà thôi hay thể trạng giác ngộ cứu kính của Quả Phật mà chúng ta tầm cầu nhằm để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

 

Cho đến bây giờ, tôi đã tập trung diễn tả một cách rộng rãi "sự bao la".  Sự thực tập này thường được liên hệ như khía cạnh "phương pháp" và liên hệ một cách đặc biệt đến việc khai mở trái tim của chúng ta, của lòng bi mẫn và từ ái, cũng như những phẩm chất như rộng lượng và nhẫn nhục mở rộng từ một trái tim từ ái.

 

Ở đây, việc rèn luyện của chúng ta liên hệ đến việc làm nổi bật những phẩm chất đức hạnh trong khi làm giảm thiểu những khuynh hướng bất thiện.

 

Khai mở trái tim có nghĩa là gì?  Trước tiên nhất, chúng ta thấu hiểu rằng ý tưởng về trái tim là một ẩn dụ.  Trái tim được nhận thức trong hầu hết mọi nền văn hóa là dòng suối của bi mẫn, từ ái, thông cảm, chánh trực, và trực giác hơn chỉ đơn thuần là một trách nhiệm cơ năng cho việc bơm máu tuần hoàn trong cơ thể.  Tuy nhiên, trong thế giới quan của Đạo Phật, cả hai khía cạnh của con đường được thấu hiểu là xảy ra trong tâm thức.   Lạ thay, quan điểm của Đạo Phật, tâm thức tọa lạc ở giữa ngực .  Một trái tim khai mở là một tâm thức khai mở.  Một sự thay đổi của trái tim là một sự thay đổi của tâm thức.  Tuy thế, khái niệm về trái tim của chúng ta cung cấp một khí cụ lợi ích, nếu tạm thời, khi cố gắng để thấu hiểu sự phân biệt giữa khía cạnh "bao la" và "thâm sâu" của con đường.

 

Khía cạnh kia của sự thực tập là "tuệ trí", cũng được biết như sự "thâm sâu".  Ở đây trong thế giới của đầu óc, nơi sự thấu hiểu, phân tích, và nhận thức quyết định là những khái niệm chủ đạo.  Trong khía cạnh tuệ trí của con đường, chúng ta làm việc để làm sâu sắc sự thấu hiểu của chúng ta về vô thường, bản chất khổ não của sự tồn tại sinh tử, và thể trạng thật sự của vô ngã. Bất cứ  người nào thì những tuệ giác này có thể cần đến nhiều kiếp sống để tìm  hiểu một cách trọn vẹn.  Tuy nhiên, chỉ cần nhận ra bản chất vô thường của mọi vật thì chúng ta có thể vượt thắng sự chấp trước của chúng ta đối với chúng và đối với bất cứ khái niệm nào về thường còn.  Khi chúng ta thiếu sự thấu hiểu về bản chất khổ não của sự tồn tại sinh tử, sự dính mắc của chúng ta với đời sống gia tăng.  Nếu chúng ta trau dồi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất khốn khó của đời sống, chúng ta sẽ vượt thắng sự dính mắc.

 

Một cách căn bản, tất cả những khó khăn sinh khởi từ vọng tưởng cơ bản của chúng ta.  Chúng ta tin tưởng trong sự tồn tại cố hữu (có tự tánh) của chính chúng ta và tất cả những hiện tượng khác.  Chúng ta vọng tưởng rồi bắm chặc vào, ý tưởng về bản chất bên trong của mọi vật, một bản chất mà mọi hiện tượng không thật sự sở hữu.  Chúng ta hãy lấy một cái ghế đơn giản để làm thí dụ.  Chúng ta tin tưởng mà không nhận ra một cách trọn vẹn niềm tin này, rằng có một thứ như vậy như bản chất của chiếc ghế, một phẩm chất của chiếc ghế dường như hiện hữu trong những bộ phận của nó:  những cái chân, chỗ ngồi, và chỗ dựa.  Trong cùng cách như vậy, mỗi chúng ta tin rằng có một cái "tôi" bản chất và tương tục bao hàm những bộ phận thân thể và tinh thần  làm nên mỗi chúng ta.  Phẩm chất cơ bản này chỉ đơn thuần do chúng ta quy cho; nó không thật sự tồn tại.

 

Sự chấp trước của chúng ta vào sự tồn tại cố hữu (tự tánh) là một nhận thức sai lầm nền tảng mà chúng ta phải tiêu trừ qua sự hành thiền về con đường tuệ trí.  Tại sao?  Bởi vì nó là nguyên nhân gốc rể của tất cả những khốn khó của chúng ta.  Nó nằm trong cốt lõi của tất cả mọi cảm xúc phiền não.

 

Chúng ta có thể từ bỏ vọng tưởng của phẩm chất căn bản này chỉ bằng việc trau dồi sự đối trị trực tiếp của nó, đấy là tuệ trí nhận ra sự không tồn tại của phẩm chất này.  Xét cho cùng, chúng ta trau dồi tuệ trí thâm sâu này, như chúng ta trau dồi sự khiêm hạ nhằm để nhổ gốc kiêu căng của chúng ta.  Trước nhất chúng ta phải trở nên quen thuộc với một cung cách thích đáng mà chúng ta nhận thức về chính mình và những hiện tượng khác; rồi thì chúng ta mới có thể trau dồi một nhận thức đúng đắn về các hiện tượng.  Khởi đầu, nhận thức này sẽ là thông tuệ, như trong những loại thấu hiểu mà chúng ta đạt được qua học hỏi và lắng nghe giáo huấn. 

Để làm sâu sắc hơn nhận thức này đòi hỏi những thực tập thiền quán cụ thể hơn được diễn tả trong Chương 11, "Nhất Tâm Bất Loạn", Chương 12, "Chín

Giai Tầng của Thiền Nhất Tâm Bất Loạn", và Chương 13 "Tuệ Trí".  Chỉ như thế thì nhận thức mới có thể tác động chân thật quan điểm của chúng ta về chính mình và những sự vật khác.  Bằng việc thực chứng một cách trực tiếp sự thiếu vắng bản chất cố hữu (vô tự tánh), chúng ta mới có thể nhổ gốc chính căn bản của sự chấp trước nằm cốt lõi tất cả mọi khổ đau của chúng ta.

 

Phát triển tuệ trí là một tiến trình đưa tâm thức chúng ta phù hợp với cung cách mọi vật thật sự là.  Qua tiến trình này chúng ta dần dần loại trừ những nhận thức sai lầm về thực tại mà chúng ta đã từng có từ thời vô thỉ.  Việc này không dễ dàng.  Chỉ đơn thuần thấu hiểu ý nghĩa sự tồn tại cố hữu hay thực chất bên trong hay tự tánh của sự vật là gì đòi hỏi phải học tập và quán chiếu rất nhiều.  Việc nhận thức rằng mọi vật không có sự tồn tại cố hữu hay vô tự tánh là một tuệ giác thâm sâu, nó đòi hỏi hàng năm học hỏi và hành thiền.  Chúng ta phải bắt đầu bằng việc làm quen chính chúng ta với những khái niệm này, những điều chúng ta sẽ khám phá xa hơn sau này trong quyển sách này.  Tuy nhiên, ngay lúc này, chúng ta hãy trở lại khía cạnh phương pháp nhằm để khám phá ý niệm bi mẫn.

 

Tuesday, October 16, 2012  / 15:57:16

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/08/2021(Xem: 6554)
Các câu trích dẫn giáo huấn của Đức Đạt-lai Lạt-ma dưới đây được ghi lại từ một tư liệu trên trang mạng tiếng Pháp Evolution-101 https://www.evolution-101.com/citations-du-dalai-Lama/. Các câu này được xếp theo các chủ đề: 1- Tình thương yêu 2- Tiền bạc 3- Hạnh phúc 4- Lòng tốt
18/08/2021(Xem: 9719)
LỜI MỞ ĐẦU Thông thường ở bất cứ quyển sách nào cũng có lời mở đầu của chính tác giả, hoặc lời giới thiệu của một người nào đó cho tác phẩm sắp được ra đời. Nay cũng nằm trong thông lệ ấy, tôi viết lời nói đầu cho quyển sách năm nay lấy tên là: "CHÙA VIÊN GIÁC", một quyển sách bằng tiếng Việt mà bao nhiêu người đã chờ đợi.
17/08/2021(Xem: 7477)
Thật là một điều kỳ diệu và lý thú khi được tin báo trên Viber là Tuyển Tập pháp Thoại vừa hoàn thành và đã sẵn sàng đến tay Phật Tử khi đến dự Lễ Vu Lan tại Tu Viện Quảng Đức (nếu không bị lockdown). Vì sao gọi là kỳ diệu? Chỉ sau khi tôi được học xong 10 duyên mà Đức Phật cho là quan trọng nhất theo thứ tự của 24 duyên, mà chúng ta ai cũng phải gặp trong thời gian còn làm người phàm, và nếu hiểu rõ tường tận thì mình có thể sẽ không bao giờ thốt lên câu “Học muôn ngàn chữ nghĩa nhưng không ai học được chữ Ngờ” của bộ Đại Phát Thú / Vi Diệu Pháp, do Giảng Sư Thích Sán Nhiên đã thuyết giảng qua 61 video, mỗi video kéo dài từ 3: 00 đến 3:50 giờ. Chính vì thế, nhờ đó tôi chợt nhận ra nhân duyên gì đã làm trưởng duyên và đẳng vô gián duyên, để tôi đến với Đại Gia Đình Quảng Đức Đạo tràng nói chung, và tiếp xúc liên hệ với TT Trụ trì Tu viện Quảng Đức Thích Nguyên Tạng và được cộng tác với Ngài trên trang website Phật Giáo, Trang Nhà Quảng Đức, để rồi hôm nay lại có duyên
17/08/2021(Xem: 5038)
Phần này bàn về cách dùng nên so với lên vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các âm này được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Ngoài ra, từ thời Việt Bồ La thì nước Việt đã mở rộng bờ cõi đến tận Cà Mau và khuếch đại các sự khác biệt trong ngôn ngữ như phương ngữ Nam bộ (tiếng Nam Kỳ) so với Bắc Bộ. Do đó các nhân tố địa-chính-trị đã đóng phần không nhỏ trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại, thí dụ như cách nói "nên mười tuổi", cùng với khuynh hướng "chuẩn hóa" tiếng Việt so với hiện tượng lẫn lộn n và l mà một số tác giả cho là ‘nói ngọng’ đều liên hệ phần nào đến chủ đề bài này.
16/08/2021(Xem: 7160)
Con người sinh ra từ xưa đến nay ai ai cũng phải trải qua 4 giai đoạn. Đó là: Sanh, Già, Bệnh và Chết. Tuy nhiên cũng có người chỉ sanh ra rồi chết liền, không trải qua giai đoạn già hay bịnh; hoặc có người chưa già đã chết vì bịnh hay tai nạn; cũng có lắm người phải sống đến 100 năm hay hơn thế nữa để thấy cuộc thế đổi thay, nhiều khi muốn chết mà chết cũng không được. Dẫu biết rằng sống hay chết là một việc tự nhiên của con người, của muôn vật và ngay cả những chúng sanh có đời sống cao hơn và lâu dài hơn chúng ta, như những vị được sanh ra ở cõi Sắc hay cõi Vô Sắc đi chăng nữa, rồi một ngày nào đó cũng phải chết, phải đi đầu thai. Họ chỉ khác chúng ta là ở cõi đó đời sống sung sướng hơn, có tuổi thọ dài lâu hơn. Vì khi làm người, họ đã biết tạo dựng nhiều phước báu, nên kiếp nầy họ mới được như vậy.
15/08/2021(Xem: 4924)
Cúng ma chay, giỗ người thân đã mất, giỗ ông bà tổ tiên, cúng cô hồn vào những ngày rằm, ngày lễ như lễ Vu Lan, Tết Nguyên Đán …vv cùng với đốt vàng mã là truyền thống ‘tâm linh’ lâu đời của người Việt Nam, là cách tưởng niệm, bày tỏ lòng biết ơn, hiếu đễ đối với người đã khuất, tổ tiên và thần linh. Ngày nay, việc cúng người chết, cúng ‘cô hồn’ và đốt vàng mã tràn lan trên tinh thần kiến chấp ‘dương sao âm vậy’, nên các loại vàng mã thay đổi đa dạng sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế nầy: ngoài áo giấy ra, vàng mã còn có cả xe hơi, nhà lầu, ipad, di động, đô la vv với ý niệm ‘thiện lành’ (nhưng tà kiến) là để người ‘âm’ sử dụng. Không những tập tục này phát triển biến tướng trong nhân gian mà còn ảnh hưởng không tốt đến môt số Phật tử tại gia, và ngay cả tại một số tự viện.
15/08/2021(Xem: 7352)
Là người hay là thú, sinh ra đời nếu bộ não bình thường thì tất cả đều có cái biết. Biết đói, biết no, biết khát, biết nóng, biết lạnh, biết thiếu, biết đủ v.v… Tâm trí loài vật, có nhiều loài khá khôn ngoan, nhưng khôn ngoan cách nào cũng không bằng con người. Khi còn nhỏ cái biết của con người rất hạn hẹp. Khi lớn lên cái biết dần mở rộng, nhờ học hỏi từ môi trường gia đình, học đường, xã hội. Tùy theo căn cơ mà có người thông minh học một biết mười, có người kém thông minh chậm hiểu. Nhưng dù cái biết của người thông minh hay cái biết của người kém thông minh thì đó cũng là cái biết cần thiết cho đời sống.
13/08/2021(Xem: 6374)
Công ơn cha mẹ tựa biển trời Làm sao báo hiếu hỡi người ơi? Nếu chưa báo hiếu đừng bất hiếu Bất hiếu làm ta khổ trọn đời.
13/08/2021(Xem: 8984)
Nam Mô Vu Lan Hội Thượng Phật Bồ Tát Phật Dạy Ân Đức Cha Mẹ - A-nan! Ân đức cha mẹ có 10 điều sau đây: MỘT là ân thai mang giữ gìn: Vì sự nghiệp lực nhân duyên, nên nay ky' thác thai mẹ. Lâu ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội núi, đi đứng sợ gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
09/08/2021(Xem: 8147)
Các lời trích dẫn giáo lý của Đức Phật cùng các danh nhân khác thường thấy trên mạng, báo chí và tạp chí đủ loại tại các nước Tây phương. Dường như trong cuộc sống dồn dập tại các nơi này, một số người đôi khi cũng thích đọc một vài câu ngắn gọn nhưng sâu sắc, giúp mình suy nghĩ về xã hội, con người và sự sống nói chung.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]