Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 05: Phiền Não

08/01/201919:25(Xem: 4696)
Chương 05: Phiền Não

CHƯƠNG 5: PHIỀN NÃO

 

 

 

Friday, October 12, 2012 / 14:30:32

 

Chúng ta đã  nói về vấn đề những cảm xúc phiền não và tổn hại mà chúng đã trút lên sự thực hành tâm linh của chúng ta.  Tôi phải thừa nhận rằng thật tự nhiên để chúng ta trải nghiệm những cảm xúc như sân hận và tham dục.  Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta không cần phải làm bất cứ điều gì đối với chúng. Tôi biết rằng trong tâm lý học phương Tây, việc biểu hiện những cảm xúc và tình cảm, ngay cả giận dữ, thì thường được khuyến khích.  Một cách chắc chắn nhiều người đã từng chịu đựng những kinh nghiệm chấn thương tâm lý trong quá khứ và nếu những kinh nghiệm này bị đè nén, chúng thật sự có thể tạo ra những tổn hại tâm lý về lâu về dài.  Trong những trường hợp như thế, như chúng tôi nói ở Tây Tạng, "Khi vỏ ốc bị đóng, cách tốt nhất để làm sạch nó là đi vào trong nó."

 

Đã nói như thế, tôi thật sự cảm thấy rằng thật quan trọng cho những hành giả tâm linh chấp nhận và thực hiện một thái độ chống lại những cảm xúc mạnh mẽ như sân hận, chấp trước, và ganh tỵ và dành hết cho việc phát triển sự kiềm chế.  Thay vì tự cho phép mình nuông chiều những sự việc xảy ra với các cảm xúc mạnh mẽ, chúng ta phải hành động để giảm thiểu thiên hướng của chúng ta đối với chúng.  Nếu ta tự hỏi chính mình là chúng ta vui vẻ hơn khi giận dữ hay khi điềm tĩnh, câu trả lời là bằng chứng.  Như chúng ta đã thảo luận trước đây, tình trạng rắc rối tinh thần là kết quả từ những cảm xúc phiền não trước mắt quấy động sự cân bằng nội tại của chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy bất ổn và khó chịu.    Trong sự tìm cầu của chúng ta vì hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta phải là chiến đầu với những cảm xúc này.  Chúng ta chỉ có thể đạt được điều này bằng việc áp dụng những nổ lực thận trọng và được duy trì liên tục trong một thời gian dài - những Phật tử chúng ta sẽ nói là nhiều kiếp sống liên tiếp.

 

Như chúng ta đã thấy, những phiền não tinh thần không biến mất như ý muốn của chính chúng; chúng không đơn giản tan biến theo thời gian.  Chúng chỉ đi đến chấm dứt như kết quả của một nổ lực chủ tâm để tiêu mòn chúng, làm giảm bớt sức mạnh của chúng, và loại trừ toàn bộ chúng một cách căn bản.

 

Nếu chúng ta mong ước thành công, chúng ta phải biết dấn thân trong chiến trận với những cảm xúc phiền não của chúng ta như thế nào.  Chúng ta bắt đầu sự thực tập của chúng ta về Phật Pháp bằng việc đọc và lắng nghe những vị thầy từng trải.  Đây là vấn đề chúng ta phát triển một hình ảnh tốt đẹp hơn về tình trạng khó khăn của chúng ta trong vòng lẩn quẩn của đời sống và trở nên quen thuộc với những phương pháp khả dĩ vượt khỏi nó.  Sự học hỏi như vậy đưa đến  những gì được gọi là "sự thấu hiểu phát xuất qua lắng nghe" (Văn).  Đấy là một nền tảng căn bản cho sự tiến bộ tâm linh của chúng ta.  Rồi thì chúng ta triển khai triển những thông tin chúng ta đã học hỏi đến mức độ của một niềm tin mãnh liệt sâu sắc.  Điều này đưa đến "sự thấu hiểu phát xuất qua quán chiếu" (Tư). Một khi chúng ta đã đạt được một chân lý nào đó của chủ đề, chúng ta hành thiền trên điều ấy vì thế tâm thức chúng ta có thể trở nên được hòa tan hoàn toàn bởi chân lý ấy.  Điều này đưa đến một kiến thức kinh nghiệm được gọi là "sự thấu hiểu qua hành thiền" (Tu).

 

Ba trình độ hiểu biết này là căn bản trong việc đánh dấu những thay đổi đúng đắn của chúng ta trong đời sống.  Với sự lãnh hội rộng rãi hơn qua học tập, niềm tin của chúng ta trở nên sâu sắc hơn, đem lại một sự thực chứng năng động hơn trong thiền tập.  Nếu chúng ta thiếu sự thấu hiểu xuất phát qua học hỏi và quán chiếu, ngay cả nếu chúng ta hành thiền vô cùng mãnh liệt, nhưng chúng ta cũng khó trở thành quen thuộc với chủ đề chúng ta đang thiền quán, bởi vì bản chất ranh ma của các phiền não hay đặc trưng vi tế của tánh không.  Điều này tương tự với việc chúng ta bị bắt buộc phải gặp gở với một người nào đó mà chúng ta không muốn gặp.  Do thế, thật quan trọng để áp dụng ba giai tầng của thực tập (văn, tư, tu) trong một cung cách liên tục.

 

Môi trường của chúng ta cũng có một ảnh hưởng lớn đối với chúng ta.  Chúng ta cần một môi trường yên tĩnh nhằm để tiến hành sự thực tập của chúng ta.  Quan trọng nhất, chúng ta cần sự tĩnh mịch.  Qua đấy tôi muốn nói  một thể trạng tinh thần thoát khỏi những việc làm cho xao lãng, chứ không chỉ là thời gian một mình ở nơi yên tĩnh.

 

 

KẺ THÙ TÀN PHÁ NHẤT CỦA CHÚNG TA

 

Sự thực tập Giáo Pháp của chúng ta nên là một nổ lực liên tục để đạt đến thể trạng vượt khỏi khổ não.  Nó không nên là một hành vi đạo đức nhờ đó chúng ta tránh khỏi những cung cách tiêu cực và dấn thân trong những thứ tích cực.  Trong sự thực tập của chúng ta về Giáo Pháp, chúng ta tìm cách để chuyển hó hoàn cảnh mà trong ấy tất cả chúng ta tự thấy mình: là nạn nhân của chính những phiền não tinh thần của chúng ta, kẻ thù của sự hòa bình và tĩnh lặng.  Những phiền não này - chẳng hạn như dính mắc, thù hận, tự kiêu, tham lam, v.v… - là những tình trạng tinh thần làm chúng ta cư xử trong những cách mà chúng đem đến tất cả những buồn đau và khổ não cho chúng ta.  Trong khi làm việc để đạt đến sự hòa bình và hạnh phúc nội tại, thật lợi ích để nghĩ về chúng như ác quỷ nội tại của chúng ta, vì như ác quỷ, chúng có thể thường lui tới với chúng ta, không làm gì khác hơn là khổ não.  Thể trạng vượt khỏi những tư tưởng và cảm xúc như vậy, vượt khỏi tất cả khổ não, được gọi là niết bàn.

 

Khởi đầu, thật không thể chiến đấu với những năng lực tiêu cực này một cách trực tiếp.  Chúng ta phải tiếp cận chúng dần dà.  Trước tiên chúng ta áp dụng nguyên tắc,  kiềm chế để không bị tràn ngập bởi những cảm xúc và tư tưởng này.  Chúng ta cũng làm như thế bằng việc làm theo một cung cách của nguyên tắc đạo đức trong đời sống.  Đối với một Phật tử, điều này có nghĩa là chúng ta kềm chế khỏi mười hành vi bất thiện.  Những hành vi này, là những thứ chúng ta tiến hành qua thân thể như giết hại hay trộm cắp, lời nói qua nói dối hay bàn tán vô ích, và tinh thần như che đậy, là tất cả những biểu hiện của những phiền não tinh thần sâu hơn như sân hận, thù oán, và dính mắc.

 

Khi chúng ta nghĩ về những dòng này, chúng ta đi đến nhận ra rằng những cảm xúc cực đoan như dính mắc - và đặc biệt là sân hận và thù oán - là rất tàn hại khi chúng sinh khởi trong chúng ta và chúng cũng rất tàn hại khi chúng phát sinh từ những người khác!  Chúng ta hầu như có thể nói rằng những cảm xúc này là những năng lực tàn phá thật sự của thế gian.  Chúng ta có thể đi xa hơn và nói rằng hầu hết những rắc rối và khổ não của thế gian mà chúng ta trải nghiệm, một cách căn bản là những tạo tác của chính chúng ta, là có gốc rể từ những cảm xúc tiêu cực này.  Chúng ta có thể nói rằng tất cả những khổ não trong thực tế là kết quả hay hoa trái của các cảm xúc tiêu cực như dính mắc, tham lam, ganh tỵ, kiêu căng, sân hận, và thù oán. 

 

Mặc dù trước tiên ta không thể nhổ gốc rể của những cảm xúc tiêu cực này một cách trực tiếp, thì tối thiểu chúng ta cũng không đang hành động phù hợp với chúng.  Từ chỗ này, chúng ta di chuyển những nổ lực hành thiền chạm trán trực tiếp với các phiền não của tâm thức và để làm sâu sắc hơn lòng từ bi của chúng ta.  Đối với giai tầng cuối cùng của hành trình chúng ta cần nhổ tất cả những gốc rể phiền não của chúng ta.  Điều này cần phải có một sự thực chứng về tánh không.

 

Tuesday, October 16, 2012 / 14:19:10


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/10/2014(Xem: 6441)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21242)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7217)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 6818)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 13655)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 8732)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8031)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
14/10/2014(Xem: 8350)
Mỗi tuần, tôi có một ngày để làm hai việc tuyệt vời. Đó là, thứ nhất: làm thinh, thứ hai: không làm gì cả! Hôm nay đang là phút giây tuyệt vời đó. Sau những ngày lạnh bất thường, nắng sáng nay rất đẹp, vàng óng và ấm áp. Cây cỏ hoa lá rộ lên niềm vui. Mọi cánh cửa mở rộng để nắng ghé vào, mang hương thơm của đất trời chuyển hóa. Không mùi hương nhân tạo nào so sánh được với hương gió núi mây ngàn. Ít nhất, chủ quan tôi như thế.
14/10/2014(Xem: 7188)
Từ Tào-Khê tịnh thất lên ngôi chùa hoang vắng nằm sâu trong rừng thông miền đông bắc Hoa Kỳ, hành trang tôi đã nhẹ. Rồi từ ngôi chùa hoang vắng đó về lại tịnh thất, hành trang lại càng nhẹ tênh! Cái giầu có nhất trong gia tài tôi, chỉ là kinh và sách, nhưng sau chuyến “lên rừng độc cư”, nay từ ba kệ lớn, chỉ còn một kệ nhỏ, khi thực hiện lời phát nguyện “Tặng hết những gì có, tới những ai ngỏ lời xin” (trừ những cuốn có chữ ký và thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ)
13/10/2014(Xem: 8285)
Tôi lặng người nhìn bức hình Tuệ Sỹ, vẫn gương mặt xương xẩu, vẫn đôi má lỏm sâu, vẫn cặp mắt rực sáng, vẫn gầy còm, chỉ là tóc đã bạc màu, y vàng nghiêm trang, kính cẩn cầm ba nén hương to, quì trước bàn thờ với bức ảnh hiền từ với nụ cười an lạc của Ôn. Ai nghe tin Ôn thị tịch cũng xúc động, cũng phải bái lễ, thọ tang. Thấy Thầy Như Minh từ Los cũng bay về, gương mặt buồn rầu như đang khóc tang. Chú cũng thuộc hàng hậu học, cũng tôn kính Ôn là bậc trưởng thượng, có gì lạ đâu. Chẳng có gì đặc biệt. Nhưng nếu có ai để ý, từ sau 1973, Chú không hề đặt chân lần nào nữa đến Vạn Hạnh, bấy giờ đã dọn về đường Trương Minh Giảng, chỉ trụ ở Già Lam, trên lầu, chia phòng với chú Dũng,[1] thì mới có thể hiểu được ý nghĩa của tấm hình này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]