Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10. Đón Nhận Sự Tái Sanh Tích Cực

03/01/201919:46(Xem: 6050)
10. Đón Nhận Sự Tái Sanh Tích Cực

 

ĐÓN NHẬN SỰ TÁI SANH TÍCH CỰC

 

Nguyên bản: Taking a Positve Rebirth

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Đón Nhận Sự Tái Sanh Tích Cực 

-***-

 

Bất chấp ta đã đạt được những may mắn nào đi nữa,

Khi ta bắt đầu cho một kiếp sống khác

Ta đơn độc không có người phối ngẫu hay con cái,

Không có áo quần, không có bè bạn,

Giống như một người nào đó bị chinh phục bởi một kẻ thù trong sa mạc

Nếu ta sẽ không có ngay cả một cái tên cho chính ta,

Thì cần gì lưu tâm đến bất cứ thứ gì khác nữa?

-         ĐỨC PHẬT –

 

           -***-

 

Thi Kệ 17

 

Xin cho chúng tôi được tái sanh với sự hổ trợ của sự sống siêu việt của một hành giả Mật thừa sử dụng bầu trời

Hay thân thể của một tu sĩ hay một cư sĩ hành giả sở hữu ba sự thực tập

Và xin cho chúng tôi hoàn thành sự thực chứng về những con đường của hai giai đoạn của sự phát sinh và hoàn thành,

Do thế thành tựu nhanh chóng những thân của một Đức Phật – Pháp thân, Báo thân và Hóa thân.

 

Việc nối kết kiếp sống tới khi ở trong thể trạng trung ấm là một tiến trình của sức hút và sức đẩy. Cả những súc sanh được sanh từ trứng bên ngoài thân thể và được sanh trong tử cung hoặc thấy cha mẹ chúng một cách thật sự trong tiến trình sinh dục, hay một ý tưởng về điều này, và rồi phát sinh tham luyến (sức hút) với cha hoặc mẹ đối ngược giới tính và sức đẩy [ra xa] với cha hoặc mẹ cùng giới tính. Khi chúng sanh trung ấm sắp ôm lấy cha hoặc mẹ mà nó tham luyến, đột nhiên tất cả nó chỉ thấy là bộ phận sinh dục của người ấy, và vì vậy nó nổi giận. Trong cách này, sức hút và sức đẩy mang đến sự chết cuối cùng của chúng sanh trung ấm.

 

Chúng ta phải nói rằng đây là cách mà đôi khi thể trạng trung ấm chấm dứt, vì sự thụ tinh trong ống nghiệm mâu thuẩn với những gì mà một số luận điển của chúng ta nói thì phải là như vậy – một cách đặc biệt, rằng cha mẹ phải ăn nằm dưới một điều kiện của sự kích thích tình dục mạnh mẽ. Ngày nay, tinh dịch của người cha có thể được giữ trong phòng thí nghiệm và được đưa vào tử cung bà mẹ mà không có sự kích thích tình dục nào. Tiến trình này mâu thuẩn với những luận điển nào đó với thực tế ngày nay, và chúng ta phải chấp nhận nó. Như những môn nhân của truyền thống Đại học tu viện Na Lan Đà Ấn Độ cổ xưa, chúng ta phải chấp nhận lý tính và khảo sát. Từ quan điểm ấy sự giải thích thông thường của chúng ta chưa hoàn toàn.

 

Ngay cả trong kinh điển Phật giáo có một câu chuyện về một đôi vợ chồng trở thành độc thân – một người là tăng và người kia là ni. Một ngày nọ vị tăng, bị ảnh hưởng bởi những ký ức quá khứ, đùa ghẹo người vợ cũ. Với việc xúc chạm thân thể, tinh dịch của ông bắn vào áo quần của bà ta. Sau này, bà cũng bị tác động với ký ức và để tinh dịch vào bộ phận của bà. Đúng thời gian, một đứa bé được sinh ra.. Cho nên, ngay cả kinh điển Phật giáo ban sơ này cũng mâu thuẩn với lý thuyết rằng sự thụ thai chỉ xảy ra trong khi đôi nam nữ ở trong tình trạng ôm ấp tình dục.

 

Trong một cách tương tự, được kể rằng dòng truyền thừa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đi ngược đến một cá nhân tên là Sun-Friend do vì tinh dịch của cha ông rơi trên lá cây, được phát triển bởi sức nóng của mặt trời vì vậy hai đứa bé được hình thành. Hai câu chuyện này, một thời dường như là chuyện thần thoại, ngày nay được hiện thực trong khoa học. Mặc dù, một cách phổ quát đó là trường hợp mà việc thụ thai xảy ra dưới những điều kiện nào đó, nó không phải luôn luôn như thế. Tương tự, việc chấm dứt thể trạng trung ấm không nhất thiết đòi hỏi sức hút với cha mẹ khác giới tình và việc phản kháng vào lúc cuối cùng vì chỉ thấy bộ phận sinh dục.

 

Trong sự chết của trung ấm thân, chúng sanh nhanh chóng đi qua 8 giai đoạn trong trình tự tiến tới:

1-ảo giác

2-luồng khói

3-đom đóm

4-ngọn đèn dầu

5-tâm bầu trời sống động trắng

6-tâm bầu trời sống động đỏ-cam

7-tâm bầu trời sống động đen

8-linh quang

 

Vào thời điểm thụ thai, chúng sanh đi qua 7 giai đoạn còn lại theo trình tự ngược lại:

7-tâm bầu trời sống động đen

6-tâm bầu trời sống động đỏ-cam

5-tâm bầu trời sống động trắng

4-ngọn đèn dầu

3-đom đóm

2-luồng khói

1-ảo giác

 

Có những giải thích khác nhau cho vấn đề chúng sanh đi vào tử cung như thế nào. Một số luận điển nói rằng bằng việc đi vào miệng của đàn ông hay đỉnh đầu và đi qua thân thể của ông ấy và dương vật đi vào tử cung của người đàn bà. Một số sách khác nói rằng chúng sanh đi trực tiếp qua bộ phận nữ vào tử cung. Một người với đạo đức chiếm ưu thế sẽ có một cảm giác của việc đi vào một ngôi nhà êm đềm và nghe những âm thanh dễ chịu. Một người bị khống chế bởi phi đạo đức sẽ có một cảm giác đi vào một đầm lầy hay khu rừng tối tăm giữa những tiếng kêu la khàn khàn.

 

Gió và tâm rất vi tế của chúng sanh đi vào vật chất (trứng và tinh trùng) được cha mẹ góp phần. Trong bào thai, vốn vào lúc này là bằng một hạt mù tạt lớn, kinh mạch trung tâm hình thành với những kinh mạch bên trái và phải cuộn vào nhau ba lần. Sau đó luồng gió chuyển-lên và gió chuyển-xuống di chuyển vào những hướng tương ứng của chúng và ba kinh mạch trở thành mở rộng. Thân thể dần dần phát triển và cuối cùng xuất hiện trong tử cung.

 

Bằng việc tiếp tục duy trì sự thực tập tâm linh được giải thích trong những thi kệ trước của Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma, ta có thể được tái sanh với một thân thể vật lý đặc biệt hổ trợ cho một kiếp sống mà trong đó ta sẽ có thể hoàn tất những con đường tu tập Mật thừa còn lại vốn đưa đến sự Giác Ngộ trọn vẹn. Ta có thể được tái sanh trong những nơi chốn lạ thường với những chúng sanh được gọi là “người sử dụng bầu trời” (sky-users), những người thực tập Mật thừa, hay trong những địa vực khác thông thường hơn nơi giáo huấn, đạo sư và sự tự do để thực tập hiện hữu. Trong một nơi tái sanh thuận lợi như vậy, ta sẽ phát những thệ nguyện của hành vi tinh khiết và đi đến sở hữu ba sự thực tập – đạo đức, thiền định, và tuệ trí – như gốc rễ cho sự tiến bộ tâm linh của ta. Với những điều này như nền tảng, ta sẽ tìm cầu để hoàn thành những thực chứng của hai giai đoạn cao nhất của Tantra Yoga Tối Thượng.

 

  • Bổn tôn du già cùng với thiền quán về tánh không và 8 dấu hiệu của sự chết.
  • Bổn tôn du già với thiền quán về tánh không, sự rút lui của những luồng gió trong kinh mạch trung tâm, và việc thực chứng về những trình độ thậm thâm của thức.

 

Qua những giai đoạn này, ta sẽ hoàn thành những bước còn lại đến Quả Phật, ở một thể trạng phục vụ hoàn toàn cho người khác. Nguyện ước cuối cùng trong thi kệ của Đức Ban Thiền Lạt Ma là chỉ cho một kiếp sống tương lai như vậy. Hãy nhớ, mục tiêu tối hậu trong sự thực tập của Phật giáo là để phụng sự người khác, và cho một tình trạng tác động nhất cho việc phụng sự là nhất thiết phải đạt được thân và tâm tinh khiết. Mục đích là để có thể hổ trợ một số lượng rộng lớn chúng sanh qua vô số phương tiện.

 

Khi ta thực tập, đừng để con đường [tu tập] chỉ đi bên ngoài chính ta, mà phải hướng tâm ta vào con đường tâm linh. Bằng khác đi, mặc dù ta cố gắng để thực tập, ta có thể trở thành mệt mõi và ngay cả làm phiền người khác sau một thời gian. Đừng chỉ lập lại những từ ngữ thi kệ của Đệ Nhất Ban Thiền Lạt Ma, Những Nguyện Ước Cho Việc Thoát Khỏi Những Tình Trạng Khó Khăn Của Trung ấm Thân, Người Anh Hùng Thoát Khỏi Sợ Hãi, mà hãy thực tập nó hàng ngày từ việc tiếp cận quán chiếu, đưa ý nghĩa và tâm. Đó là lời khuyên của tôi.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-    Mục tiêu trong việc tái sanh của ta là được sanh ra với một thân thể trong một hoàn cảnh có thể hoàn thành những con đường tâm linh còn lại.

2-    Mục tiêu của việc trở thành Giác Ngộ hoàn toàn là để phụng sự người khác.

 

-***-

 

Ẩn Tâm Lộ, Wednesday, December 12, 2018

                                                                                       

 

 

 
HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
 
Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01-Tỉnh thức về sự chết

02- Giải thoát khỏi sự sợ hãi

03- Chuẩn bị để chết

04- Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05-Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung

06- Hành thiền trong khi đang chết

07- Cấu trúc bên trong

08- Linh quang của sự chết

09- Phản ứng với tình trạng trung ấm thân

10- Đón nhận một sự tái sanh tích cực

11- Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5565)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5477)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6893)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4274)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9091)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5438)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5056)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5647)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6145)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5161)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]