Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh (2)

10/04/201313:58(Xem: 7247)
Chúng tôi học Kinh (2)
Chúng tôi học Kinh (2)


Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam


Hôm nay chúng tôi học phẩm thứ 2 của kinh Pháp Hoa, đó là phẩm Phương Tiện.

Chữ phương tiện thì ai cũng hiểu rồi nhưng trong phẩm này có nghĩa đặc biệt và khi giảng kinh này quý Thầy hay dùng chữ Quyền Biến để thay thế 2 chữ phương tiện. Phương tiện là cửa ngỏ để đi vào cứu cánh, phương tiện có tính cách giai đoạn.

Mở đầu phẩm Phương Tiện, Đức Phật tâm sự với đại chúng rằng Ngài rất băn khoăn sau khi thành đạo, không biết có nên đem Phật pháp ra giảng cho chúng sanh cõi Ta Bà này không, vì căn tánh chúng sanh rất can cường, thân tâm mê chấp, trí tuệ thấp kém, tính tình kiêu mạn, không chịu tìm hiểu để tin..v...v... mà Phật pháp thí quá vi diệu, cao sâu, Ngài nghĩ: hay mình hãy nhập Niết Bàn cho rồi. Nhưng sau đó, Ngài nhớ lại và quán chiếu việc chư Phật trong nhiều đời đã giảng nói Phật pháp cho chúng sanh, quý Ngài dùng rất nhiều phương tiện thiện xảo để cho chúng sanh tin hiểu và áp dụng, vậy nên đức Phật Thích Ca ngày nay cũng nên y theo phương pháp của chư Phật trong 10 phương mà bày ra phương tiện để giảng Pháp cho chúng sanh. Trước hết Ngài đã phương tiện nói là có 3 Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát). Với Thanh Văn Ngài giảng Tứ Diệu Đế, với Duyên Giác Ngài giảng Duyên Khởi, với Bồ Tát Ngài giảng Lục Độ Ba La Mật.. v.. v.. nhưng thật ra chỉ có một Thừa (Nhất Thừa) đó là Phật Thừa. Vì thế bây giờ Ngài chỉ nói về Phật Thừa. Ngài nói rằng tất cả chúng sanh, Ai Rồi Cũng Sẽ Thành Phật, từ người tu hành tinh tấn, cho đến biếng nhác, phóng túng ... nhưng có khởi tâm muốn muốn làm Phật, từ em bé nhóm cát xây thành tháp Phật cho đến người chỉ đưa một tay ra, chắp tay lạy Phật ..v..v... đều sẽ thành Phật trong tương lai vì hạt giống Bồ Đề không bao giờ mất. Có khác nhau chăng là vấn đề thời gian mà thôi. Lời tuyên bố này quả là khó tin, chỉ có những ai chịu khó tu tập, tìm hiểu sâu sắc về Phật pháp mới hiểu được và chấp nhận lời Ngài.

Trước đây Ngài đã phương tiện nói Tam Pháp Ấn: Vô Thường, Vô Ngã, Khổ

Chư hành vô thường (các hành vô thường)

Chư pháp vô ngã (các pháp vô ngã)

Chư thọ thị khổ (các thọ là khổ - dù là lạc thọ cũng là khổ theo sau)

Bây giờ chỉ là một: Nhất ấn hay thật tướng ấn; từ ba pháp ấn chỉ còn lại một pháp ấn, đó là khuôn mặt đích thật của thực tại.

Đối tượng của kinh này là hàng Thanh Văn- đại diện là ngài Xá Lợi Phất - ngài là một trong 10 đại đệ tử Phật, hạnh bậc nhất của ngài là Trí Tuệ, ngài cũng là thầy của La Hầu La (Đức Phật giao cho ngài dạy La Hầu La). Điều đó nói lên rằng phải là hàng có trí tuệ mới có thể nghe hiểu, chấp nhận và tin những điều Như Lai nói ra, do vậy mà trong hội chúng đã có năm ngàn người từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật rồi lui về. Đây là những người nghiệp chướng sâu dầy và tăng thượng mạn, chưa chứng đắc nhưng tự cho mình đã chứng đắc. Đức Thế Tôn cho rằng đây là hạng người đại diện cho những chồi khô mộng lép, với ngôn ngữ bây giờ thì ta nói rằng: những người này chỉ cần thay đổi cách nhìn, cách suy nghĩ thì họ cũng thành Bồ Tát, có khả năng thành Phật hết.

Đức Phật nói rằng mục đích tối hậu của sự ra đời của chư Phật là làm cho chúng sanh biết được rằng chúng sanh cũng có tri kiến Phật (Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật). Nhưng tại sao lại đánh mất đi, tại sao 6 căn không còn thanh tịnh? - Đó tại vì Tham Sân Si Mạn Nghi ...v..v... đã che lấp, nói cách khác, vô minh đã làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này bị mê lầm. Trong bài giảng của thầy Từ Thông, thầy có nói rằng khi mới sanh ra, 6 căn của chúng sanh cũng thanh tịnh như của chư Phật: hãy quan sát một em bé chưa biết đi, 6 căn của em thật thanh tịnh: mắt nhìn những vật quý giá của thế gian nhưng không hề ham muốn, tai nghe đủ loại tiếng nhưng không đắm, ..v..v.. Ta thử đưa cho em một hột xoàn: em có thể cầm chơi một chút rồi quăng đi không hề luyến tiếc, ai cho thì ăn, uống thì uống, không ưa cũng không ghét đối với mọi người mọi vật. Tâm em bé hồn nhiên trong sáng, 6 căn thanh tịnh, không hề bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (là 6 trần) làm nhiễm ô. Em bé không biết có ta có người, không phân biệt mảy may (tức là không có Ngã và Ngã Sở). Đức Phật gọi cái hạnh này là anh nhi hạnh, chúng sanh khi thành người lớn đã đánh mất cái hạnh này rồi tâm bị nhiễm ô bởi tham sân si mạn nghi phiền não..v..v..Nghe thầy giảng ngang đây tôi liền nhớ đến Tâm Bất Sinh của thiền sư Bankei (Nhật). Theo ông thì người lớn cũng có cái tâm bất sinh nghĩa là cái tâm không phân biệt, cái tâm ban sơ chưa suy nghĩ, so đo, tính toán.

Chính cái tâm này sẽ tự nó an bài mọi sự một cách êm xuôi không cần mình phải bon chen, tranh đua hơn kém..v..v... Nếu ai an trú trong tâm bất sinh đó thì đấy là Phật. Thiền sư Bankei sống cách đây vài trăm năm mà ở thời đó ông còn bị chống đối huống gì thời Đức Phật cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, làm sao những chúng sanh không có tuệ giác có thể tin nỗi!. Thật là khó khăn cho Đức Phật khi muốn truyền bá Đạo nhiệm mầu cho chúng sanh cõi Ta Bà này. Tuy nhiên anh chị em chúng tôi đã được may mắn biết một trong những người lớn mà có tâm hồn trẻ thơ, sống thanh thản, an nhiên tự tại giữa cuộc đời ồn ào phức tạp này: đó là Thiền Lão thiền sư. Sư không màng biết bao nhiên năm tháng đã trôi qua, mình là ai, mặc dù Thiền phong của Sư vang dội khắp nơi và học trò của Sư lên đến hơn ngàn người. Một hôm vua Lý Thái Tông đến viếng chùa của Sư và hỏi:

- Hòa Thượng trụ trì ở đây được bao lâu rồi ạ?

Sư đáp: Chỉ biết ngày tháng này (Đản tri kim nhật nguyệt)

Ai rành Xuân Thu trước (Thùy thức cựu Xuân Thu)

Vua hỏi lại rằng : Hằng ngày Hòa Thượng làm gì?

Sư đáp: Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác (Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh)

Trăng trong mây bạc hiện toàn chân (Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Vua rất kính phục và muốn thỉnh Sư về triều đình để làm cố vấn nhưng khi sứ giả của vua đến thì Sư đã viên tịch. Sư quả thật đã tu đến độ lục căn thanh tịnh, đã đạt được anh nhi hạnh của một tâm hồn trẻ thơ, nghĩa là tâm Phật bất sinh vậy.

Chữ phương tiện làm anh chị em chúng tôi có thật nhiều điều muốn nói, chúng tôi đã dành nhau nói về những bài học của mình đã học được và đem áp dụng vào cuộc sống cũng như trong việc giảng dạy cho các em. Xin ghi ra đây những bài học của nhóm chúng tôi:

* Tất cả các môn học trong Gia Đình Phật Tử như Hoạt Động Thanh Niên, Trò Chơi, Văn Nghệ, Báo Chí Trại, Trại Mạc ..v..v.. đều nhằm mục đích giới thiệu Phật pháp với các em, truyền bá giáo lý đến các em; vì vậy nếu sa đà theo phương tiện mà quên mục đích thì đó là khuyết điểm của người Huynh Trưởng. Cũng vậy, báo chí nếu không đem lại sự hòa ái tin yêu giữa những người Phật tử, giữa người với người, không đem niềm vui đến cho độc giả mà chỉ đem phiền não, thị phi..v..v.. thì tờ báo đó mất tác dụng truyền bá Phật pháp rồi.

Về bản thân, nếu chúng ta k hông phân biệt rõ phương tiện và cứu cánh trong các hành động của thân, miện ý trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể bị sa vào lầm lỗi. Ví dụ có anh chị bảo rằng uống rượu mà không say sưa là được, uống rượu, khiêu vũ ..v...v... là để xã giao. Trong xã hội ngày nay không tránh được việc xã giao, thù tiếp trong công việc làm ăn ..v..v.. được. Điều này có thể đúng nhưng chúng ta phải luôn tỉnh thức để biết lúc nào là cần thiết xử dụng nó như một phương tiện và lúc nào ta đã sa đà vào sự phóng dật đam mê không thể rút chân ra được. Điều này chỉ có ta biết mà thôi. Xin hết sức cẩn trọng !.

Trong phẩm này có nhiều câu kinh, kệ thật là hay, không thể không nhớ hoài được và nhờ vậy chúng ta dễ thuộc, dễ áp dụng, ví dụ như:

Chư pháp tùng bổn lai (Các pháp xưa nay)

Thường tự tịch diệt tướng (Thường tự vắng lặng)

Câu này nói lên cái ý nghĩa thật độc đáo: đó là mỗi lá cây ngọn cỏ đều dạy cho ta về vô thường vô ngã và tánh không của vạn pháp. Chúng ta không chỉ đến chùa mới nghe được Phật pháp vi diệu mà từng chiếc lá cành hoa...v...v... đều giảng nói Phật pháp nếu chúng ta biết ngắm nhìn và biết lắng nghe. Thật vậy, nhìn một cành hoa ta thấy rõ trùng trùng duyên, khởi. Cái hoa là tổng hợp của nước, ánh sáng, đất, gió, không khí, mặt trời..v...v... đó là chưa kể công người trồng, tưới, mưa gió thuận hòa. Thầy Nhất Hạnh thường khen bài thơ của Quách Thoại vịnh bông hoa thục dược như sau:

Đứng yên ngoài hàng giậu,

Em mĩm nụ nhiệm mầu

Lặng nhìn em kinh ngạc

Và thoảng nghe em hát

Lời ca em thiên thu

Ta sụp lạy cúi đầu.

Thầy nói người thi sĩ trẻ này đã nắm bắt được thực tại nhiệm mầu. Thật vậy, chính bây giờ và ở đây chúng ta có hạnh phúc, chúng ta có an lạc, chúng ta có cái đẹp tuyệt đối chứ không cần tìm ở đâu xa. Nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta sẽ thấy, biết lắng tai thì sẽ nghe những âm thanh vi diệu từ thiên nhiên quanh ta trong một buổi bình minh, một buổi hoàng hôn hay ngay cả trong cái tĩnh mạch của một buổi trưa Hè. Do đó, trong khi đi dạo ta có thể thực hành Thiền, giữ tâm yên, lời yên, chúng ta học tập được rất nhiều điều từ thiên nhiên mặc dù thiên nhiên không bao giờ nói gì cả. Điều này còn có thể chữa lành hay bồi dưỡng cái tâm quá mệt mỏi của chúng ta nữa.Hai câu này không chỉ chúng ta thấy hay mà người xưa cũng thấy hay nữa, chẳng thế mà một vị thiền sư đã dùng để mở đầu cho một bài thơ của mình:

Chư pháp tùng bổn lai

Thường tự tịch diệt tướng

Xuân đáo bách hoa khai (Xuân đến trăm hoa nở)

Hoàng Oanh đề liễu thượng (Oanh vàng ca liễu thắm)

Vị thiền sư này cũng thưởng thức thiên nhiên với tâm thanh tịnh thực tại rất đơn giản ở trước mặt như hoa xuân đua nở và chim chóc ca hót. Tâm của thiền gia an lạc, thanh tịnh, không vướng mảy may phiền não.

Ngoài ra trong khi học phẩm này chúng tôi được nhắc nhở về 3 thứ ngoại đạo.

1/ Ngoại đạo thật

2/Ngoại đạo mạo danh đạo Phật: tu theo ngoại đạo nhưng dán nhãn hiệu đạo Phật.
3/ Học Phật pháp thành ngoại đạo: hiểu lầm Phật pháp, ý của mình mà nói là ý của Phật, Tổ ..v...v... như vậy tưởng là truyền bá đạo Phật , kỳ thực là truyền bá ý của mình. Họ chấp lời nói của Phật, của Tổ, cho là thật, không biết đó chỉ là phương tiện. Đức Phật gọi hạng thứ ba này là sư tử trùng, vì chính họ sẽ tiêu diệt Phật pháp.

Một bài học khác nữa là gần gũi và cúng dường vô số chư Phật. Thế nào gọi là được gần gũi và cúng dường vô số chư Phật ? Đây cũng là ngôn ngữ biểu tượng của Pháp Hoa. Vì thọ lượng của chư Phật là vô cùng vô tận, chúng ta làm sao gần gũi và cúng dường vô số chư Phật trong một kiếp phù du ở cõi Ta Bà này được ? Nhưng nếu ta an trú trong tâm Phật bất sinh, xa lìa ngã chấp, ngã sở (chấp có TA và CỦA TA), luôn tỉnh thức tránh tất cả các điều ác, làm tất cả điều lành, giữ tâm ý trong sạch, không truy tìm quá khứ, không mơ ước tương lai, luôn an trú trong hiện tại, hằng ngày luôn luôn nhớ nghĩ điều thiện, giữ gìn chánh niệm, không khởi tà niệm..v...v... thì đó là ta đã gần gũi và cúng dường vô số chư Phật vậy. Nói tóm lại, gần gũi và cúng dường chư Phật có nghĩa là gần gũi với Phật tánh thanh tịnh của chính mình.

Một bài học quý nữa là vềthật tướng của các pháp.Chúng ta thường gặp phiền não khổ đau vì chúng ta méo mótrong cách nhìn, cách nghe ..v...v... chúng ta không thấy được thật tướng của các pháp. Nếu chúng ta nhìn một vật, một người với tâm Phật bất sinh của mình, nhìn mà không phân biệt lớn nhỏ, cao thấp, xấu đẹp thi không bao giờ chúng ta gặp phiền não, đau khổ. Nếu chúng ta biết nghe với tâm bình đẳng, không để cho cái ngả của ta vướng vào, sao cho cái nghe cứ vẫn là cái nghe thuần túy, cái thấy chỉ là cái thấy thuần túy.... thì ta sẽ thấy vạn pháp vốn bình đẳng, ta hiểu được ý nghĩa của không dơ, không sạch, không thêm không bớt, không thường không đoạn, không sanh không diệt.... là như thế nào. Đức Phật nói đó là nhìn sự vật theo cái nhìn của chư Phật. Theo Thập Như Thị: tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả ...báo.... Còn chúng ta , chúng ta luôn phân biệt, đặt tên, phê phán. Ví dụ núi thì cao, đồi thì thấp, sông thì sâu, hồ thì cạn..v...v.... Nhìn người thì phân biệt người nước này, nước nọ, châu này, châu kia, màu da vàng, trắng, đỏ đen....., người này dễ thuơng, người kia dễ ghét, người này đẹp người kia xấu..v..v... từ đó phiền não khổ đau tranh chấp sẽ kéo theo sau. Thật vậy, nhìn mọi vật với cái thấy của tâm phân biệt nhỏ hẹp của mình thì thật là hạn chế; nếu chúng ta biết quay về với tự tâm thanh tịnh, nhìn mọi vật theo tướng của nó, tánh của nó, bản thể của nó, lực dụng của nó..v...v... thì ta thấy được tính bình đẳng không hai của mọi sự mọi vật trên đời, không bị hạn chế bởi tâm địa hẹp hòi, so sánh đo lường, tính toán, phân biệt... của chính chúng ta nữa, mà trái lại thấy được tính cách phong phú, đa dạng và vi diệu của vạn pháp vậy.

Để kết thúc Phẩm Phương Tiện, chúng tôi nhờ Th. ngâm một bài kệ cũng bát đầu bằng câu Chư Pháp tùng bổn lai thường tư tịch diệt tướng, mà chúng tôi đã được thuộc từ lâu mặc dù không ai biết của tác giả nào:

Các pháp xưa nay thường vắng lặng

Tâm sanh Niệm khởi cảnh liền sanh

Nghe chuông tỉnh thức lìa cơn mộng

Thể nhập chơn tâm diệu đức hằng.

--- o0o ---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/11/2020(Xem: 6101)
Trong những năm tháng còn theo đuổi thú sưu tầm Tem & “Vật phẩm bưu chính” (phong bì FDC ngày phát hành đầu tiên, bì thư thực gửi, bưu ảnh...) về đề tài “Phật giáo”, tôi hữu duyên gặp và sở hữu được một bưu ảnh (postcard) không dán tem ,cũng như không có dấu nhật ấn của bưu điện, giá trị không cao không quý gì mấy đối với những người chuyên sưu tập tem thư, nhưng với tôi thì tôi cho là... vô giá.
03/11/2020(Xem: 5545)
Viện Đại học Phật giáo Viên (원불교대학원대학교, Won Buddhism Graduate School), một cơ sở giáo dục dựa trên tinh thần sáng lập của tông phái Phật giáo Viên (원불교), Hàn Quốc, nhằm mục đích đào tạo các cán bộ giảng dạy Phật giáo Viên. Viện Đại học Phật giáo Viên đủ điều kiện để nhận những sinh viên có bằng Cử nhân tại các Đại học Wonkwang, Đại học Younsan Sunhak. . . Đây là một trường Đại học được thành lập như một nơi để đào tạo trình độ Thạc sĩ tại Viện Đại học Phật giáo Viên.
02/11/2020(Xem: 6522)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 6392)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5302)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 5791)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
01/11/2020(Xem: 4946)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4688)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 17711)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4454)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]