Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Duy Thức (5)

10/04/201313:57(Xem: 6727)
Chúng tôi học Duy Thức (5)

Chúng tôi học Duy Thức

Tâm Minh


Thân kính tặng ACE Áo Lam


Đây là cuốn Kinh mà Anh Chị em chúng tôi ai nấy cũng đều đã hơn một lần đọc qua nhưng di sâu vào thì ai cũng ‘ngán’ cả ! Vì vậy Kinh Văn mọi người đều có, người thì có bản Phật Học Phổ Thông ( PHPT- khóa 9) của thầy Thiện Hoa, người thì có Duy Thức Học của GS Thạc Đức ( là thầy Nhất Hạnh đó) , người thì Thắng Pháp Tập Yếu Luận của thầy Minh Châu ,hay Thành Duy Thức Luận và Luận Câu Xá của thầy Thiện Siêu v..v..

Vẫn biết rằng Duy Thức chính là Tâm Lý Học Phật Giắo, mà Tâm Lý là môn học thật hấp dẫn với tất cả mọi người, vì vậy mặc dù chúng ta học ban Toán ,ở lớp 12 ngày xưa không có Tâm Lý, cũng ráng tìm đọc ; bây giờ có cơ hội học thì còn gì hạnh phúc hơn ! Thế nhưng chỉ mới ‘đụng vào’ 30 bài tụng để biết 100 Pháp là những thứ gì là anh chị em chúng tôi ‘ dội ’ liền vì chữ Hán rất nhiều , và dù có bài dịch nhưng đôi khí cũng không hiểu được . Thế là, vào một buổi trưa nắng chang chang phải chạy lên Vạn Hạnh cầu cứu thầy Chơn Thiện dịch và giảng cho nghe 30 bài Tụng Duy Thức , vì chiều nay là phải học chung với Chúng rồi . Chúng tôi nhớ mãi buổi trưa hôm ấy nhằm ngày cúp điện của Viện nên thầy trò mỗi người mỗi cái quạt giấy , Thầy vừa nói ,vừa dịch, giảng còn chúng tôi thì vừa chép vừa hỏi lại nhũng chỗ ghi không kịp hay còn thắc mắc .

Thế rồi mọi việc cũng qua đi trôi chảy, chúng tôi sẵn sàng cho buổi học ‘gay go’ này . Trước hết chúng tôi nhắc nhở nhau về những điều mới học được , như lược qua những hệ thống tư tưởng Duy Thức , có 3 nguồn chính :

Duy Thức Luận của Đại Thừa

Thắng Pháp Luận của Thượng Tọa Bộ

Câu Xá Luận của Nhất Thiết Hữu Bộ

Nói cách khác những sách mà ACE có hay đã nghe nói đến đều thuộc vào một trong 3 hệ thống tư tưởng này mà thôi

Và chúng tôi cũng đồng ý với nhau rằng mặc dù Duy Thức chúa đựng thật nhiều thuật ngữ Phật giáo, chữ Hán rất khó vì rất ít gặp nhưng những vấn đề Phật dạy trong Kinh thì lại rất gần gũi, vì nó xảy ra ngay trong nội tâm chúng ta, từng giây, từng phút và chúng ta có thể theo dõi , thí nghiệm . . . được nữa .

Thật là thích thú vô cùng, chúng tôi dành nhau nói lên những bài học, người nói sau thì phải tìm ra bài học mới hơn nếu ‘không may’ bị bạn ‘chớp’ đi bài học đắc ý của mình . Những bài học đầu tiên thuộc về ‘ngữ vựng’ ( vocabulary) như sau :

1) Bài học thức nhất : Tâm Vương là gì ? Tại sao nói ‘tu tâm là tu theo tâm vương chứ đừng chạy theo tâm sở’?

Ta thường nghe Phật dạy ‘Tất cả các Pháp đều vô ngã’ Duy Thức học (DTH) dạy ta rằng ‘tất cả các Pháp’ là gồm có 100 Pháp ( = 8 Tâm Vương + 51 Tâm Sở + 11 Sắc Pháp + 24 Tâm bất- tương- ưng-hành + 6 Pháp Vô Vi ) ; đây là bài kệ để đọc cho dễ thuộc :

Sắc Pháp 11 ,Tâm vương 8

Năm mươi mốt món Tâm sở nữa

Với hai mươi bốn Bất- tương- ưng

Cộng 6 Vô vi thành 100 pháp

Như vậy, Tâm Vương là 8 Pháp dầu tiên trong 100 Pháp ; đó là :

Thứ nhất : Nhãn thức, thứ 2 : nhĩ thức, thứ 3: tỉ thức, thứ 4 : thiệt thức, thứ 5: thân thức , thứ 6: Ý thức, thứ 7 : Mạt na thức và thứ 8: A lại da thức

Qua bài vở học ở trường, ai cũng biết được 5 thức đầu (chữ Hán gọi là Tiền ngũ thức) , học Phật Pháp ta biết được thêm 3 thức sau là Ý, Mạt na và A lại da

ý thức rất lanh lợi, tinh ranh và chạy nhảy lung tung ( tâm viên ý mã) .Nếu ý suy nghĩ tính toán việc tốt thì thân, miệng . . . làm và nói điều tốt, nếu ý âm mưu hại người, làm ác v..v. thì thân phạm tội, miệng nói lời điêu ngoa dối trá, v..v.

Mạt nalà cái gốc của Ý nên Mạt na thức còn được gọi là Ý căn . Nói 1 cách nôm na, những lúc Ý thức bị gián đọan ( ngủ mê, bất tỉnh nhân sự, ‘côma’ , bị chụp thuốc mê v..v..) nó không bị mất hẵn, mà nương về thức thứ 7 tức là Mạt na thức : ý thức ví như cái cây có cái rễ là thức thứ 7 Mạt Na .

Mạt na thức còn có nhiều tên gọi khác : thức thứ 7, Ỳ căn, Truyền Tống thức . Công năng củaMạt na thức là suy xét, so đo, chấp trước, phân biệt : phân biệt có ‘cái ta’ , cái Tôi , nghĩa là bảo thủ cho ‘cái ngã, cái Tôi’ của mình . Ngoài ra, thức này vừa có công năng truyềncác điều mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi v.v.( DTH gọi là ‘các pháp hiện hành’ ) vào A lại da thức , vừa tốngcác chủng tử ở trong A lai da thức khởi ra hiện hành ( đó là lý do tại sao những cảnh vật đã thấy từ hồi thơ ấu có thể ‘tái hiện ‘ lại trong trí khi ta hồi tưởng lại) .

A lại Da thức : là cái ‘ kho chứa’ mà Mạt na đã đem mọi thứ cất vào đó và chấp cái kho tàng này là ‘cái Tôi’ cái ngã . . . vì vậy A lại da còn được gọi là ‘ ngã ái chấp tàng’ ( bị thức thứ 7 chấp làm ‘cái Ta’ ) Đây là một cái kho vĩ đại, có vậy mới chứa hết tất cả những gì mà mạt na muốn nắm giữ trong nhiều đời nhiều kiếp được . Duy Thức học gọi đó là Tàng thức . Vậy A Lại Da thúc còn có 2 tên nữa là thức thứ 8, và Tàng Thức .

Thầy Thiện Hoa đã dịch bài kệ 8 Tâm Vương sau đây để dễ thuộc & nhớ công năng của chúng :

Anh em 8 chú một chàng si ( si=si mê = thức thứ 7)

Duy có ý thức rất linh ly ( linh ly= linh động, khôn ngoan)

5 ngưới ngoài cửa lo buôn bán ( 5 thức trước)

Làm chủ trong nhà đệ bát y (đệ bát y = thức thứ 8)

Từ đó ta thấy rằng muốn áp dụng Duy Thức vào sự tu tập , ta phải cần chăm chú vào 2 thức thứ 6 và thứ 7 ,vì thức thứ 6 thì có thể nghĩ thiện nghĩ ác, toan tính bao la còn thức thứ 7 thì si mê , chấp ngã, chấp pháp, sa đà theo tâm phân biệt ‘ ta’ và ‘người’ , ‘yêu-ghét’ ‘lấy-bỏ’ v..v.. càng ngày càng xa lời Phật dạy, quên hẵn đường về ( chơn tâm) khiến ta trôi lăn mãi trong sanh tử luân hồi. Ta phải tập quán ‘nhân vô ngã’ và ‘pháp vô ngã’ mới mong làm chủ được 2 thức này , lọai dần ngã chấp và pháp chấp. Đây cũng như công việc ‘ gạn cát đãi vàng’ cho đến khi rèn luyện xong thì tất cả ‘thức’ đều trở thành ‘ Trí ’ : Mạt na thức trở thành’Bình Đẳng tánh trí’, A lại da thức thì thành ra ‘Đại viên cảnh trí’ , Ý thức lúc ấy là ‘Diệu Quan sát trí ,’ còn 5 thức trước chuyển ra ‘ Thành Sở Tác Trí ’ - Chúng ta thấy rõ ràng Tu là chuyển hoáchứ không phải ‘thêm’ hay ‘bớt’ cái gì cả . Ở đây ta cũng thấy được cái ‘vô tư, vô tội, ngây thơ trong sáng’ của 5 thức trước , như vậy tu tập là làm sao để cho ‘cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe v..v..’ chứ không để cho cái tâm phân biệt ( ‘cái anh Mạt na’ tức là khen chê, yêu ghét ,lấy bỏ đó ! ) chen vào!

2)Tâm Sở là những gì ?

Ở đây ta lại có 1 lô những danh từ về DTH , có từ chúng ta đã biết và hiểu nghĩa ,có từ hoàn toàn mới lạ nên ACE chúng tôi cùng nhau ôn tập lại 1 lần cho nhớ :

Tâm Sở tùy theo Tâm Vương mà khởi và giúp đỡ Tâm Vương tạo Nghiệp , Kinh dạy:

51 món Tâm Sở = 51 món sở hữu của Tâm Vương, được chia thành 6 nhóm như sau :

a) Căn bản phiền não (6) : Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến (ác kiến = thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ)

b) Tùy phiền não (20) - được sinh ra do căn bản phiền não ở trên) : Phẩn ( tức giận) , Hận, Não (buồn rầu bức rức) , Phú ( che giấu tội lỗi của mình) , Tật ( tật đố = ganh tị) , Xan (keo kiệt , bỏn xẻn, rít róng) , Cuống( Dối gạt người ) , Xiễm ( nịnh hót, bợ đở v..v..) , Hại, Vô Tàm ( không biết hổ đối với lương tâm mình), Vô Qúy ( không biết thẹn với người ) , Phóng dật, Bất tín, Giãi Đãi, Trạo cử, Hôn Trầm, Tán Lọan , Thất Niệm, Bất Chánh Tri

c) Bất Định ( 4) : Hối, Miên, Tầm ( tìm cầu) ,Tư ( suy xét chính chắn)

d) Biến hành (5) : Xúc, Tác Ý, Thọ, Tưởng , Tư ( lo nghĩ) . Sở dĩ gọI là ‘ biến hành’ vì 5 thứ này có thể đi cùng khắp, xuyên qua thời gian, không gian , các Thức ( 8 thức tâm vương) và các Tánh ( lành, dữ, không lành không dữ) nữa .

e) Biệt cảnh (5) : Dục, Thắng Giải ( hiểu biết rõ ràng) , Niệm, Định, Huệ

f) Thiện ( 11) : Vô Tham , Vô Sân, Vô Si, Tàm, Quí, Bất Hại, Bất Phóng Dật, Hành Xả, Khinh an , Tín, Tinh Tấn .

Ở đây ta thấy rằng trong 51 món tâm sở, chỉ có 11 là Thiện ,Lành còn lại là phiền não, đau khổ hay là ‘bất định,’ như vậy việc tu tập là luôn luôn theo dõi tâm mình, phát triển những thiện tâm sở và ‘đàn áp ‘ những phiền não đừng cho dấy khởi lên .

3) 11 Sắc Pháp là những gì ?

Sắc pháp là những pháp thuộc về sắc; sắc= hình dáng và màu sắc . Sắc pháp có11 mónlà gồm 5 căn : nhãn căn ( con mắt) ; nhĩ căn ( lỗ tai) , tỉ căn ( lỗ mũi); thiệt căn ( cái lưỡi) ; thân căn , và 6 trần: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần , xúc trần, pháp trần.

Bài học ở đây là nghiệp dụngcủa 11 sắc pháp này và đặc biệt về pháp trần ( đối tượng của ý thức) .

Nghiệp dụng của con mắt là chiếu soi các sắc ( hay nói : sắc trần là cảnh bị thấy bởi con mắt)

của lổ tai là hay nghe các tiếng ( hay : thanh trần là tiếng bị nghe bởi lỗ tai)

của lỗ mũi là hay ngửi các mùi thơm và thối (hay: hương trần là mùi bị ngửi bởi lỗ mũi)

của cái lưỡi là nếm các bị và nói năng, kêu gọi (hay: vị trần là vị , cảnh bị nếm bởi lưỡi)

của thân là duyên xúc trần ( nặng,nhẹ, trơn, nhám v..v..) hay còn nói : xúc trần là những va chạm ,tiếp xúc bị biết bởi thân.

Pháp trần : cái bóng dáng của 5 trần còn lưu lại trong ý thức : khi mắt không còn thấy sắc, tai không còn nghe tiếng, v..v.. cho đến thân không còn tiếp xúc , đụng chạm. . . mà trong ý thức vẫn còn tái hiện lại được bóng dáng của 5 trần : cái bóng dáng đó gọi là pháp trần , danh từ DTH gọI là ‘lạc-tạ- ảnh- tử’ ( cái bóng rớt lại) ; hay nói : pháp trần là tướng phần ảnh tượng của ý thức . Sách PHPT của Thầy Thiện Hoa có phân biệt 5 lọai pháp trần nữa

ACE chúng tôi ai nấy đều thấy rằng có nhiều cái chúng ta đã biết

nhưng qua DTH ta vẫn thấy thật mới lạ như nói ‘sắc trần là tướng phần của con mắt’ , ‘thanh trần là tướng phần của lỗ tai’ v..v. hay ‘sắc pháp là tướng phần ảnh tượng’của tâm vương và tâm sở . Đó là tại vì danh từ DTH tướng phầncó nghĩa là đối tượng ; còn kiến phần= chủ thể .

4) 24 Tâm bất tương ưng hành pháp là những gì ?

Đây là 24 món không tương ưng với Tâm , chỉ nương theo 3 phần Tâm Vương, Tâm sở và Sắc pháp mà giả thành lập . Ví dụ như Đắc (Được , trái ngượtc với ‘mất’) Được là được cái gì ? vd : được 1 đồng bạc => vậy phải có đồng bạc là ‘sắc pháp’ và ‘nhãn thức’ để ‘thấy’ , ý thức phân biệt là ‘ tâm pháp’ v..v.. 24 món bất tương ưng hành pháp là : Đắc, Mạng căn, Chúng đồng Phận, Dị sanh tánh, Vô tưởng định, Diệt tận định, Vô tướng báo , Danh Thân( tên, danh từ) , Cú thân( câu văn) , Văn thân( chữ) , Sanh, Trụ, Lão, Vô thường ,Lưu chuyển, Định vị, Tương ưng, Thế tốc, Thứ đệ, Thời, Phương, Số, Hoà hợp tánh, Bất hoà hợp tánh .

24 món Bất tương ưng hành này hợp với 8 Tâm vương, 51 Tâm sở và 11 Sắc pháp vị chi là 94 pháp ; đây là các pháp hữu vicó sinh có diệt, biến đổi luôn luôn. Khi các pháp hữu vi diệt rồi thì các pháp vô vi mới hiển bày. Vô vi là những gì không tạo tác, không sinh không diệt, không tăng không giảm, vắng lặng, thường còn ; có 6 pháp Vô Vi :

5) 6 Pháp Vô Vi :6 món Vô Vi là do 4 món hữu vi trên đây ( Tâm Vương, Tâm Sở, Sắc Pháp, Bất tương ưng hành pháp) diệt hết mà hiện bày ra, đó là thật tánh của Thức ; 6 món Vô Vi là : Hư Không, Trạch diệt, Phi Trạch diệt , Bất động diệt, Thọ tưởng diệt, Chân Như .

Đây là bài học thứ nhất về Duy Thức của ACE chúng tôi, hôm nay chỉ học về chữ một . Chúng tôi dành 3 buổi cho Duy Thức , nên 2 buổi sau , ACE chúng tôi sẽ học về thức thứ 7 và thức thứ 8 cũng như hệ thống 8 thức của DTH .


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2015(Xem: 8607)
Từ ngàn xưa, con người đã hằng nung nấu, ôm ấp ước mơ được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, sự bất tử trường sinh dường như chỉ thấy có được trong những câu chuyện thần thoại hoang đường, hay truyền thuyết mơ hồ viễn vông.
11/04/2015(Xem: 9152)
Nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với một nền văn minh ngày càng rực rỡ. Khoa học hiện đại được xem gần như là vạn năng, phục vụ mọi nhu cầu vật chất trong đời sống của con người. Thế nhưng, con người đã thật sự hạnh phúc, thật sự chấm dứt khổ đau hay chưa? Đó là điều chúng ta cần phải suy gẫm.
10/04/2015(Xem: 10664)
Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên những khi mơ màng lơ đãng, lúc thả hồn đi hoang, khi u buồn khắc khoải, lúc mộng mơ vượt rào, khi hạnh phúc dâng tràn, lúc bồn chồn lo lắng, sẽ khiến cho người đối diện dễ dàng phát hiện ra những thầm kín chôn dấu đó đây. Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc hay đong đầy hệ lụy khổ đau, đều tùy thuộc vào tầm nhìn sự xúc cảm những bất an biến động nổi dậy, hay sự bình yên lan tỏa trong tâm thức mỗi chúng ta.
10/04/2015(Xem: 9046)
Bài pháp với đề tài thực dụng “Đem sự tu tập vào đời sống” đã được Ni Sư Tenzin Palmo trình bày với phong cách đơn giản mà tinh tế, linh hoạt cuả bà. Ni Sư chấm dứt bài giảng, nhìn thính chúng, mỉm cười chờ đợi những câu hỏi của các Phật tử tham dự. Chánh điện Thiền Tự Tiêu Dao sinh động hẳn lên và hội chúng tranh nhau đưa tay xin hỏi. Thông qua sự thông dịch của hai em Phật tử, Ni Sư từ tốn giải đáp từng thắc mắc về cá nhân Ni Sư, về cuộc sống đời thường cho đến các ưu tư về trải nghiệm thiền tập...
10/04/2015(Xem: 8072)
Lần đầu tiên cùng mấy người bạn nước ngoài về thăm Hà Nội vào đầu thập niên 90, tôi vẫn không quên những tấm bảng nguệch ngoạc hai chữ “Thịt Cầy” cùng mấy chú cầy nướng treo lủng lẳng trước dăm ba quán ăn nhỏ trên đường từ phi trường vào trung tâm thủ đô. Biết mấy anh bạn da trắng vốn kỵ thịt chó, tôi bảo họ rằng đấy là những quán bán “thịt nai”! Mãi sau thì họ khám phá ra được và phì cười bảo rằng những con nai của tôi là… “nai biết sủa” (barking deer).
09/04/2015(Xem: 7590)
Tokyo, Nhật Bản, ngày 6 tháng 4 năm 2015 – Vào buổi sáng, đức Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có buổi tiếp thân mật với một nhóm các Nghị sĩ Nhật Bản để thảo luận các vấn đề cùng quan tâm. Sau khi ăn trưa, Ngài tham gia vào một Diễn đàn Môi trường toàn cầu cho các thế hệ kế tiếp, tại Yomiuri Hall, Tokyo, Nhật Bản. Sau khi Xướng ngôn viên giới thiệu xong, Ngài phát biểu rằng: Anh chị em quý mến ! Thật là một vinh dự lớn và hân hạnh được cùng quý vị chia sẻ trên tình Bồ đề quyến thuộc với nhau. Đó là truyền thống của chúng tôi, tôi nghĩ rằng đã là Bồ đề quyến thuộc trong tình pháp lữ, chúng ta đã biết nhau, tình pháp lữ chúng ta mãi cho đến ngày cuối cùng của mình. Tôi thật cảm động được kết duyên thêm nhiều pháp lữ.
08/04/2015(Xem: 7355)
Cách khoảng 800 km chuyến bay từ Tokyo đến Sapporo, một cuộc hành trình hoằng pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nhật Bản. Tokyo bầu trời xanh mây trắng bãng lãng, mùa xuân hoa Anh đào nở rộ như một tin vui đón chào một vị Thánh tăng quang lâm. Ngược lại vùng Hokkaido vẫn còn chút mùa Đông tuyết trắng se lạnh. Ngài là vị khách mời đặc biệt của các chi nhánh Sapporo thuộc Junior Chamber International (JCI), một tổ chức xã hội phi chính phủ quốc tế, phi lợi nhuận.
08/04/2015(Xem: 6641)
Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo đạo Phật. Truyền thống xuất gia gieo duyên cho thế hệ trẻ thanh thiếu niên trong cộng đồng là một nét đẹp mà xã hội quốc gia này và các nước theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy như Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Myanmar, hay như vùng dân tộc Khmer ở miền Tây Nam bộ của Việt Nam. Mỗi năm tại các Tự viện Phật giáo Thái Lan đều tổ chức lễ xuất gia gieo duyên cho những thanh thiếu niên trong cộng đồng. Một năm tổ chức một vài lần.
08/04/2015(Xem: 8841)
Có một chị bạn rất kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nói với tôi rằng: Khi mẹ của chị bệnh nặng, tưởng chừng như sắp mất, chị ấy đã khấn vái, cầu xin Bồ-tát hãy cứu mẹ và chị chấp nhận chịu giảm đi 10 năm tuổi thọ của mình để cho mẹ được sống. Và thật là mầu nhiệm, mẹ chị ấy đã được Bồ-tát cứu giúp, không chỉ khỏi bệnh mà còn sống thêm vài năm nữa mới mất. Chị rất vui về hạnh hiếu này dù đã mất đi 10 năm tuổi thọ. Tôi cũng kính tin Bồ-tát nhưng không chấp nhận việc Ngài sẽ giúp ai đó “chịu giảm thọ để cho người khác sống lâu thêm” vì ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể chịu tội hay gánh nghiệp thế cho ai. Vậy trong trường hợp của chị ấy thì giải thích như thế nào, nhờ Bồ-tát linh ứng, hay nhờ người con đã gánh bớt nghiệp cho mẹ?
07/04/2015(Xem: 10669)
Như một làn điện chớp sẹt ngang đầu khi thiên hạ nghe tin khó tưởng, cô Hoa Lan lắm lời vừa phát nguyện Tịnh Khẩu. Vâng, chuyện có thật các bạn ạ! Chẳng những Hoa Lan mà còn cả hơn 50 giới tử tham dự buổi Thọ Bát Quan Trai do thầy Hạnh Bảo hướng dẫn tại chùa Linh Thứu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]