Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 08)

10/04/201313:55(Xem: 8366)
Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 08)

Học Kinh (08)

Chúng Tôi Học Kinh Hoa Nghiêm


Tâm Minh ghi

---o0o---

Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam


Nếu Duy Thức đối với ACE chúng tôi đã là một ‘khu rừng’ thì Hoa Nghiêm lại hơn thế nữa: đó là một khu rừng có trang bị ‘bát quái trận đồ’ bởi vì đi vào rồi mà ‘lớ xớ,’ không biết phương vị, thiên văn, địa lý v..v.. thì lạc luôn vào ‘mê hồn trận’ trong đó, không thể tìm lối ra được .

Thật vậy, từ trước đến nay ACE chúng tôi chưa từng học qua cuốn kinh nào dài bằng Hoa Nghiêm, mới ngó thấy đã sợ rồi: này nhé, bộ Kinh gồm 40 phẩm, ‘gói’ lại trong 4 tập, mỗi tập dày trên dưới 1000trang: tập I từ phẩm 1 đến P.21; tập II từ P.22 đến P.26; tập III từ P.27 đến P.38 và tập IV chỉ gồm 2 phẩm 39 (Nhập Pháp Giới) và 40 (Nhập Bất Tư Nghì Giải thoát); riêng P. 39 là chiếm hơn 800 trang rồi! Về tài liệu, ACE chúng tôi không có tài liệu nào ngoài bản dịch của Thầy Trí Tịnh và Thiền Luận Suzuki (Tập III, Thầy Tuệ Sỹ dịch). Chính vì vậy chúng tôi phải tìm đọc trước cả mấy tháng và phân công đặc biệt người nào phải ‘đi sâu’ (nghĩa là đọc kỹ để thuyết trình trước Chúng hay ‘giải đáp từ ngữ’ nếu có ai thắc mắc vì chưa đọc tới). Ngoài ra, buổi học đầu tiên sẽ lượt qua cái ‘dàn bài đồ sộ’ của Hoa Nghiêm và quyết định sẽ học chung những Phẩm nào.

Hôm nay là buổi học đầu tiên về Hoa Nghiêm. Cả Chúng quyết định sẽ học Hoa Nghiêm trong nhiều buổi, chia thành những vấn đề, và học cho xong từng vấn đề này chứ không phải xong một buổi. Những vấn đề đưa ra là: 1. Giảng nghĩa đề Kinh 2. Sơ Lược về Triết Lý Kinh Hoa Nghiêm 3. Phẩm 39 Nhập Pháp Giới. 4. Những bài học về Toán và Khoa Học hiện đại rút ra từ Kinh Hoa Nghiêm. Như vậy, ngoài Phẩm 39 chúng tôi sẽ phải đi vào các Phẩm 5 Hoa Tạng Pháp Giới, Phẩm 12 Hiền Thủ, P.27 Thập Định, P.30 A Tăng Kỳ, P.33 Bất Tư Nghì, P.36 Phổ Hiền v..v..

Bây giờ là bắt đầu đi vào Giảng nghĩa đề Kinh và ý nghĩa những thuật ngữ thường gặp trong Kinh.

Trước khi tiếp xúc với cái khô khan của từ ngữ, chúng ta hãy nghe Suzuki (qua Thầy Tuệ Sỹ) giới thiệu về thế giới ‘bừng sáng’ của Hoa Nghiêm : ‘ . . . .Chúng ta được đưa lên tận dải ngân hà tinh đẩu, Thế giới không trung xưa nay vốn ngời sáng. Màu hắc ám của rừng Thệ Đà (Jetanana) nơi trần gian, vẻ phàm tục của đám cỏ khô thiết toà sư tử hẳn là đức Thích Tôn đang ngự thuyết pháp, một bọn ăn mày lam lũ đang nghe Kinh trong cái thực tại không bản ngã- tất cả đều hoàn toàn tan biến hết ở đây. Khi Phật nhập vào một thứ Tam muội (Samãdhi) nào đó, cái túp lều ngài đang ngự đột nhiên trải rộng đến tận cùng bờ mé của vũ trụ; nói khác đi, chính vũ trụ được hòa tan vào thể tánh của Phật. Vũ trụ là Phật, Phật là vũ trụ. Và đây không phải duy chỉ là sự dàn trải của khoảng chân không hay khô héo rút thành một nguyên tử; bởi vì, có kim cương lát đất, có lưu ly, có châu ngọc gắn lên những hàng cột, những rào dậu, những tường bao, chúng lấp lánh phản chiếu lẫn nhau. . .’

Rõ ràng, thế giới Hoa Nghiêm không phải là thế giới mà chúng ta có thể đi vào với cái tâm phàm tục, với tham sân chấp ngã thường tình. Chúng ta, vì vậy, không chỉ phải ‘tắm rửa sạch sẽ’ trước khi học Hoa Nghiêm mà cái chính là còn phải ‘thanh tịnh tâm ý’ tập trung tư tưởng, chuyển hoá tư duy ... thì mới có thể phần nào lĩnh hội được giáo lý Hoa Nghiêm vậy, như lời Thầy nói tiếp: ‘Sự tập thành của Hoa Nghiêm (Gandavyũha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của người Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật. Như thế, khi học Hoa Nghiêm, cái cốt yếu nhất cần phải biết, bấy giờ Phật không còn là một kẻ sống trong thế gian có thể nhận ra giữa những giới hạn của thời gian và không gian.Tâm thức của ngài không phải là cái tâm trí phàm tục bị bắt buộc chìu theo cảm quan là luận lý. Cũng không phải là một sản phẩm của tưởng tượng thi vị sáng tạo nên những hình ảnh riêng tư và những phương pháp đề cập đến những sự vật cá biệt.’

Đề Kinh Hoa Nghiêm nói một cách đầy đủ gồm có 7 chữ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’. Chỉ nội trong 7 chữ này đây chúng tôi cũng học được rất nhiều rồi !J J !

Theo đại sư Thanh Lương Trừng Quán, vị Tổ thứ 2 của Tông Hoa Nghiêm, thì định nghĩa của 7 chữ này như sau:

Đại = thể tánh, bản chất, biểu thị cho ‘Thể đại.’ Đại ở đây không có nghĩa ‘lớn’ (đối với ‘nhỏ’); Đại ở đây là ‘Bất tư nghì giải thoát cảnh giới’ cũng là ‘chân tâm’ ‘tự tánh’ 'Phật tánh’ là ‘bản lai diện mục’ v..v.. vốn sẵn có trong mỗi chúng sanh; chỉ khác về mặt hiện tướng: tâm chư Phật thì bao la như hư không còn tâm chúng sanh thì nhỏ xíu, hẹp hòi ích kỷ.Vì vậy, Phật thì tự do tự tại, ra vào trong thong dong trong 3 cõi để cứu chúng sanh, còn chúng sanh thì phải theo sự dẫn dắt của nghiệp lực mà trôi lăn trong 3 cõi 6 đường. Đó cũng chính là lý do Phật bảo: ‘ta là Phật đã thành, các ngươi là 'Phật sẽ thành’ vậy.

Phương = biểu thị cho ‘Tướng Đại’ Phương có 2 nghĩa là ‘chánh’ và ‘pháp’ :

‘Chánh’là mục tiêu tu tập không sai một mảy may- hoàn toàn đúng với lời dạy của chư Phật .

Pháp : là phương pháp; phương pháp để thành Phật, phương pháp chứng quả. Y theo phương pháp này mà tu thì nhất định có thể khế nhập ‘Nhất Chân Pháp Giới’, Thiền Tông gọi là ‘minh tâm kiến tánh’

Quảng = biểu thị cho ‘Dụng đại’ Dụng cũng có hai nghĩa là ‘bao trùm’ và ‘biến khắp’

‘Bao trùm’ là tâm lượng bao trùm thái hư

‘Biến khắp’ là biến hiện khắp pháp giới (chữ ‘biến’ này hiểu theo nghĩa mà chúng ta thưòng nghe ‘ . . . biến pháp giới quá hiện, vị lai chư Phật); hay trong ‘chu biến pháp giới’ - trong Nhân có Quả, trong Quả có Nhân hay ‘Nhân bao trùm biển Quả, Quả thấu triệt nguồn Nhân . . .

Thể, Tướng và Dụng tuy 3 mà 1 tuy một mà 3. Sự tạo tác khởi tâm động niệm của chư Phật hay của chúng sanh cũng đồng biến khắp pháp giới. Vì vậy chúng ta phải cẩn trọng không chỉ trong lời nói, việc làm mà cả với từng niệm khởi lên trong tâm ta. Đoạn ác tu thiện chính là khi khởi tâm động niệm cũng không rời ba đặc tính chí thiện của Tâm vừa nêu trên ( Đại-Phương - Quảng).

Phật:là Phật đà = Giác - Tự giác, Giác tha, giác hạnh viên mãn (ACE chúng tôi không khai triển nhiều về chữ ‘Phật’ nữa)

Hoa:Hoa được dụ cho nhân đại (quả đại là Phật) tiêu biểu cho Pháp. Hoa có 2 nghĩa :

Hoa= là biểu thị cho Lục độ vạn hạnh của Bồ tát. Một hạnh là tất cả sáu hạnh (ví dụ trong bố thí ba la mật bao gồm cả trì giới, nhẫn nhục, thiền định, tinh tấn v..v..)

Hoa= trang nghiêm các tướng = hoa đức hạnh= hoa trí tuệ (hoa đức hạnh & trí tuệ là loài hoa đẹp nhất, không tàn phai)

Người tu hành trang nghiêm thân tâm mình bằng từ bi và trí tuệ chứ không dùng hương hoa xông ướp như thường tình.

Nghiêm:biểu thị cho Trí đại, tức trí huệ chân thật. Dùng công đức trang nghiêm của tự thân để trang nghiêm Phật pháp, nghĩa là bằng công phu tu tập của bản thân, chân chính thực hành công hạnh để có thể ‘thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ’ (sở dĩ thế giới này loạn động, chúng sanh khốn khổ, ấy là tại chúng ta tu hành chưa rốt ráo, hay nói theo ‘ngôn ngữ Hoa nghiêm’ là: vì không khế nhập Đại Phương Quảng, nên không thể chứng đắc Phật Hoa Nghiêm vậy !J J !!)

Kinh:biểu thị cho Giáo đại (giáo học rộng lớn) Trong phẩm Nhập Pháp Giới sẽ học sau này, Thiện Tài Đồng Tử đã theo học với khắp các vị thiện tri thức (53 vị) về mọi lĩnh vực, các vị thầy này ở đủ mọi tầng lớp trong xã hội; giáo dục Phật giáo là một nền giáo dục rộng khắp mà đối tượng là tất cả chúng sanh trong các cõi nên muốn thực hành Bồ tát đạo để giáo hoá chúng sanh thì phải học suốt đời vì biển học mênh mông.

Bài học hôm nay có lẽ là bài ngắn nhất trong 4 bài học về Hoa Nghiêm. Đến đây là xong phần giảng nghĩa đề Kinh & ACE chúng tôi đưa ra những bài học cho tự thân như sau:

1) Thế giới của Hoa Nghiêm là thế giới của ánh sáng, ánh sáng của trí tuệ và tình thương, vì vậy chúng ta học kinh Hoa Nghiêm cũng phải chuẩn bị mình như thế nào mới có thể hiểu được ngôn ngữ của thế giới này, thế giới của hàng Bồ tát, trong đó không có mặt tham ái, chấp thủ.

2) Từ đây mỗi khi nói đến ‘Hoa’ ta nghĩ đến Hoa Nghiêm và mấy câu thơ trong hai bài kệ Cắt Hoa và Cắm hoa của thầy Nhất Hạnh :

‘Hoa là vị Bồ tát,

Làm đẹp cho cuộc đời’

Và :

‘Trang nghiêm Tịnh Độ

Nơi cõi Ta Bà

Đất tâm thanh tịnh

Hiển lộ ngàn hoa’

3) Trong thể tánh Chân Như không có chủ thể và đối tượng, không có ‘ta’ hay ‘chúng tôi’ vì ‘ta’ cũng chính là ‘chúng tôi’: một là tất cả, tất cả là một; một ‘sát na’ cũng là ‘thiên thu bất tận’ và một hạt cát cũng là tam thiên đại thiên thế giới; tất cả ‘những điều kỳ diệu’ này tất nhiên là ‘mắt trần và lòng trần’ không thể thấy và cảm nhận được, bởi vậy phải mở rộng con mắt trí tuệ và mở rộng lòng mình ra (từ bi). Đó chính là ý nghĩa hai chữ ‘bừng sáng’ đặc tính của thế giới hoa nghiêm vậy.

4) Trong thể tánh Chân Như, chỗ nào cũng có Phật, Phật và chúng sanh có sự tương cảm nhiệm mầu, như lưới Trời Đế Thích phản chiếu ánh sáng làm hiển bày ra vô số Phật và Bồ tát, nơi nào cũng có Phật và Bồ tát sẵn sàng lắng nghe và cứu chúng sanh thoát khổ. Nếu chúng ta mở được con mắt từ bi và trí tuệ ra thì một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, ta có thể cũng có khả năng cứu khổ những người quanh ta bằng tình thương nơi chính mình.

5) Bước vào thế giới Hoa Nghiêm tức là vào một thế giới không có quá khứ và vị lai, chỉ có Hiện tại ( = ‘hiện tại miên viễn’)- cảnh giới tối cao của Thiền. Chúng ta có biết bao nhiêu bài học về cuộc đời của một vị Thiền sư: ngài đi vào cuộc đời như một người bình thường, làm ăn chăm chỉ như chúng ta, ‘không khoa trương hoạt cảnh Hoa nghiêm ra ngoài, mà để nằm trọn vẹn trong mình, chỉ có Phật mới nhận ra ngài.’

Những bài học đầu tiên về Hoa Nghiêm của ACE chúng tôi là như vậy. Mong rằng lần học kế tiếp chúng tôi cũng có thể tiếp nhận Hoa Nghiêm như lần đầu, không bị ‘choáng ngợp’ vì giáo lý ‘trùng trùng duyên khởi’ của bộ Kinh đặc biệt này.


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/05/2021(Xem: 6644)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 6032)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 13052)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5869)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
15/05/2021(Xem: 5618)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5857)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4893)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4897)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 5101)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4959)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]