Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 09)

10/04/201313:48(Xem: 7813)
Chúng tôi học Kinh Hoa Nghiêm ( 09)

Học Kinh (09)

Chúng Tôi Học tiếp Kinh Hoa Nghiêm
(Sơ Lược về Triết Lý Hoa Nghiêm)

Tâm Minh ghi

---o0o---

Thân kính tặng Anh Chị Em Áo Lam


Hôm nay ACE chúng tôi mới được thực sự đi vào giáo lý Hoa Nghiêm. Trước hết, chúng ta phải lược sơ qua ‘lịch sử thuyết giảng kinh Hoa nghiêm’ cũng như nguồn gốc kinh Hoa Nghiêm mà chúng ta chưa đề cập tới được-trong bài học trước (chỉ mới bàn qua về tên Kinh) .

Theo truyền thuyết của Phật Giáo Đại thừa và cũng theo Đại sư Trí Khải (538-597), sau khi thành đạo, chưa vội rời Bồ Đề đạo tràng đức Phật Thích Ca Mâu Ni với Pháp thân Tỳ Lô Giá Na, cùng chư đại Bồ Tát chứng giải thoát môn, tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm để hóa độ hàng thượng thừa Bồ tát; sau đó mới đến hàng nhị thừa... nhưng vì giáo lý Hoa Nghiêm quá cao, nên ngài phải giảng 'hạ thấp xuống’ cho hợp với căn cơ của chúng sanh. Lịch sử thuyết giảng Kinh của đức thế Tôn vì vậy, được chia làm 5 thời :

*Thời Hoa Nghiêm: 21 ngày, giảng về sự hình thành của vũ trụ vạn hữu để độ cho hàng thượng thừa Bồ tát.

*Thời Lộc Uyển (tức thời A Hàm): 12 năm, giảng các bộ kinh A Hàm, giảng về Tứ Diệu Đế, 12 nhân duyên, 37 phẩm trợ đạo v..v.. để độ cho hàng nhị thừa (Thanh Văn, Duyên Giác)

*Thời Phương Đẳng: 8 năm, giảng về giáo nghĩa tánh Không, Như Lai Tạng, Chân Như… qua các kinh Lăng Già, Duy ma Cật, Lăng Nghiêm, Thắng Man v..v.. để độ cho hàng sơ phát tâm Bồ tát.

*Thời Bát Nhã: 22 năm, giảng về chân lý Không của vạn pháp qua các bộ kinh Bát Nhã và Kim Cương để độ cho hàng quyền thừa Bồ Tát

*Thời Pháp Hoa & Niết Bàn: 8 năm, xác nhận Phật tánh vốn có trong mọi chúng sanh và ai cũng có thể thành Phật trong tương lai, không phải chỉ những người có căn bản trí tuệ mới thành Phật được, qua các bộ kinh Pháp Hoa & Niết Bàn.

Nói riêng về Kinh Hoa Nghiêm, đã có 9 hội giảng kinh Hoa Nghiêm tại 7 địa điểm khác nhau :

*Hội thứ nhất tại Bồ Đề Đạo Tràng do Bồ tát Phổ Hiền làm hội chủ .

** Hội thứ hai tại điện Phổ Quang Minh , do Bồ Tát Văn Thù làm hội chủ

***Hội thứ ba tại cung Trời Đao Lợi do BT Pháp Tuệ làm hội chủ

****Thứ tư, tại cung Trời Dạ Ma, BT Công Đức Lâm là hội chủ

*****Thứ năm, tại cung Trời Đâu Suất, Bồ tát Kim Cương Tràng là hội chủ

******Thứ sáu, tại cung Trời Tha Hoá, Bồ tát Kim Cương Tràng là hội chủ

****** Hội thứ bảy, tại điện Phổ Quang Minh, đức Thế Tôn là hội chủ

********Hội thứ tám, tại điện Phổ Quang Minh, Bồ tát Phổ Hiền là hội chủ

*********Hội thứ 9, tại rừng Thệ Đà , do đức Thế Tôn và thiện hữu đều là hội chủ.

Cũng theo truyền thuyết, trong 9 hội Hoa Nghiêm này, đức Thế Tôn chỉ giảng vài phẩm (A Tăng Kỳ, Như Lai Tùy Hảo Quang Minh Công Đức ) mà thôi .

Về nguồn gốckinh Hoa Nghiêm, sau khi đức Phật nhập diệt khoảng 600 năm, do Long Thọ Bồ tát (Nãgãrjuna), kinh Hoa Nghiêm mới được lưu truyền bằng Phạn văn.

Mặc dù đạo Phật được truyền vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ 1 nhưng bộ kinh Hoa Nghiêm phải 300 năm sau mới chính thức được dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán, do các ngài Phật Đà Bạt Đà la (Buddhabhadra) người bắc Thiên Trúc đến Trung Hoa vào đời Đông Tấn (317- 419), ngài Thật Xoa Nan Đà (Sikasananda) người nước Vu Điền (Kotan), và ngài Bát Nhã (Prajna) người nước Kế Tân ( Kaboul) đến Trung Hoa vào đời nhà Đường (618-907). Ngoài ra còn những bộ Luận, Sớ giải, Vấn đáp, Huyền ký v..v.. luận giảng về nghĩa lý kinh Hoa Nghiêm có giá trị đặc biệt của các ngài Đỗ Thuận Thuyết, Trí Nghiễm, Pháp Tạng, Trừng Quán (Thanh Lương), Tuệ Uyển, Tông Mật (Khuê Phong) v..v..

Ở nước ta, bộ Kinh này không hiểu được truyền vào từ thời nào nhưng Thầy Trí Tịnh đã dịch ra tiếng Việt từ năm 1965 và Thầy có dặn muốn nghiên cứu đầy đủ hơn thì xem thêm bộ Hoa Nghiêm Đại Sớ của Tổ Thanh Lương và Thập Huyền Môn của Tổ Hiền Thủ. ACE chúng tôi, một câu chữ Hán cũng không viết nổi, và thấy 4 cuốn Kinh Hoa Nghiêm này cũng đủ ‘khiếp’ rồi, chỉ mong đọc từ trong này mà hiểu được phần nào giáo lý Hoa Nghiêm là thấy an ủi mãn nguyện, chưa có dịp ngó thấy mấy cuốn Kinh Thầy bảo đọc thêm nữa ! ! J J !!

Về nội dung triết lý kinh Hoa Nghiêm, ACE chúng tôi nhắc nhở nhau (như đã biết ở lần học đầu tiên): giáo nghĩa Hoa nghiêm được đức Phật và chư pháp thân đại sĩ thừa oai thần của Phật tuyên dương nên cảnh giới Hoa Nghiêm là cảnh giới ‘bất tư nghì giải thoát,’ nên mỗi lời, mỗi câu trong Kinh đều lấy toàn thể pháp giới tánh làm lượng, nên tất cả Giáo, Lý, Hạnh , Quả nơi đây đều dung thông vô ngại, nên cũng gọi là‘vô ngại pháp giới’

Muốn đi vào thế giới ‘trùng trùng duyên khởi’ của Hoa Nghiêm mà không bị lạc đường, chúng ta cần phải biết 4 pháp giới và 6 tướng. 4 pháp giới cũng là 4 cấp bậc mà hàng Đại thừa Bồ tát tuần tự tu chứng; đó là:

1. Lý vô ngại pháp giới

2. Sự vô ngại pháp giới

3. Lý sự vô ngại pháp giới

4. Sự sự vô ngại pháp giới

Trong thế gian, mọi sự vật hiện tượng được bao gồm trong bốn loại pháp giới (tứ pháp giới - vừa kể trên ) và sáu dạng xuất hiện (lục tướng). Mỗi ‘pháp’ đều có đủ 6 tướng: tổng tướng-biệt tướng; đồng tướng - dị tướng; thành tướng - hoại tướng; ta thường nghe gọi tắt là ‘tổng-biệt, đồng-dị, thành-hoại’

ACE chúng tôi lần lượt trình bày trước Chúng những điều thu thập được từ ‘tứ pháp giới’ và ‘lục tướng’ này:

1) Trước hết là Sự Pháp Giới,sự pháp giới là thế giới của tự nhiên, bao gồm mọi hiện tượng, sự vật của trời đất, vũ trụ, vạn vật. . . tất cả biểu dương sức sống mãnh liệt khởi lên từ một nguồn năng lượng duy nhất là Chân Như. Sở dĩ gọi là ‘pháp giới’ vì các pháp đều có tự tánh riêng (hình dáng, tính chất, kích thước, trọng lượng v..v..); nhưng khi dùng trong nghĩa rộng, pháp giới là vũ trụ rộng lớn, là không gian bao la.

2) Lý Pháp Giới,là bản thể - là thể tánh chân thật của tất cả các pháp, còn nhiều tên gọi khác như là: pháp giới tánh, chân như, pháp thân, thực tướng, ‘bản thể chân không của vạn pháp’ hay ‘bản lai diên mục’ của mỗi chúng sanh.

3) Lý Sự Vô Ngại Pháp Giới,là thế giới của hiện tượng và thế giới của bản thể không mâu thuẫn, ngăn ngại nhau. Sự nhờ lý mà thành, lý nhờ sự mà hiển bày. Trong Lý có Sự, trong Sự có Lý. Sự là ‘sắc’ Lý là ‘không’; nói rằng ‘ Lý Sự vô ngại’ cũng đồng nghĩa với nói ‘Tâm tức vật,’ ‘Tinh thần tức vật chất ở thể loãng, mà vật chất là tinh thần ở thể cô đọng lại’ hay nói theo ngôn ngữ vật lý ‘Năng lượng là khối lượng’ [ công thức của A. Einstein : E (năng lượng) = khối lượng x(bình phươngcủa tốc độ ánh sáng) ]. Lý & Sự không chỉ là không ngăn ngại mâu thuẫn nhau mà còn không thể tách rời nhau, ví như sóng và nước; thật vậy, ngoài nước làm sao có sóng? Nước nổi lên thì thành sóng, Sóng tan thành nuớc. Lý (chân không) và Sự (diệu hữu) đan nhau chằng chịt không thể tách rời nên mới nói 'Chân không chẳng rời diệu hữu’ Đó cũng là lý do mà chúng ta thường thấy chư Phật- đại diện là đức Thế Tôn của chúng ta- và chư Tổ không bao giờ trả lời ‘có’ hay ‘ không’ của ngoại đạo khi họ hỏi về thượng đế, sự hình thành của vũ trụ, về nguyên nhân đầu tiên , v..v. .mà các ngài chỉ nói về Duyên Khởi, 12 nhân duyên v..v.. Lý và Sự tuy hai mà một, tuy một mà hai, nên nói ‘đồng’ hay ‘dị’ đều không đúng, đó chỉ là 2 mặt của cùng một sự vật, một hiện tượng hay một vấn đề. Ví dụ, về mặt bản thể thì sóng chính là nuớc nhưng trên mặt hiện tượng sóng không phải là nuớc; ta có thể nói rõ hơn bằng một ví dụ cụ thể: một chiếc tàu lướt đi nhẹ nhàng trên nước nhưng có thể bị chìm, bị gây tổn thương vì sóng lớn, có phải không? Chơn Tâm (‘Tâm bình thường’) là nước và tâm tham, tâm sân, tâm si là sóng đó; phải không các bạn? Đó là lý do tại sao ta thường nghe nói ‘phút truớc là Ma, phút sau là Phật’ vì tâm thanh tịnh là Phật mà tâm tham sân si là Ma rồi (vì nó dẫn ta đi vào các đường ác!)

Lý và Sự trong mỗi pháp đều viên dung vô ngại, nên trong vạn pháp cũng viên dung vô ngại - ví dụ như nước với sữa, có thể hoà tan vào nhau, tạo thành một thể duy nhất. Ấy gọi là trạng thái ‘tự tại vô ngại, viên dung’, trong cái thể ‘tương tùy, tương sinh, tương tức, tương nhập’ Do đó, nếu chúng ta sống với điên đảo mộng tưởng, với ‘truy tìm quá khứ, mơ ước tương lai’ hay với tâm chấp ngã, thị phi, luôn thấy có ‘ta’ có ‘người,’ ‘người xấu, ta tốt’ 'người dở ta hay’ v..v.. thì tâm luôn bất an, phiền não, có khi đau khổ vì yêu-ghét, kỳ thị, thù hận . . . vì thấy đủ thứ chướng ngại, sai biệt ; trái lại, nếu chúng ta tập nhìn cuộc đời với cái nhìn của Hoa Nghiêm, thấy được ‘tất cả chúng sanh đều đồng một thể tánh chơn thật - đó là Phật tánh trong ta- thì ta sẽ không còn vướng vào vòng thị phi điên đảo làm tổn hại lòng từ bi và trí tuệ của ta nữa. Chúng ta sẽ thấy ngay cái ‘đồng’ cụ thể nhất của chúng sanh, đó là ‘tham sống sợ chết, tham vui sợ khổ’ Đó là lý do mà đức Khổng Tử đã dạy 'Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác’ (‘Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân’) và ACE chúng ta thì nhắc nhở nhau ‘mở rộng lòng thương tôn trọng sự sống’ hay ‘sáng cho người thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ.’ Quả thật hạnh phúc hay đau khổ đều do lối tư duy mà ra - vì chính là Ý chỉ đạo mọi hành động về thân và miệng đó mà !!

Vì Thể (lý) và Tướng( sự) và Dụng viên dung nên công dụng của vạn hữu biến hoá ra vô cùng mầu nhiệm, kỳ diệu đến nỗi có nhiều người trên thế giới này nghĩ rằng phải có bàn tay của một vị ‘thượng đế’ hay ‘thần linh’ tối cao mới làm phép thần ‘thiên linh linh, địa linh linh’, mới biến hoá ra được. Một khi biết được những đặc tính tương tùy, tương sinh, tương tức, tương nhập của vạn pháp và với cách nhìn được chỉ bày trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta không còn lạ lùng với ‘thế giới bừng sáng’ của Hoa Nghiêm ở cảnh giới ‘Bất tư nghì giải thoát’ trong đó vắng mặt của tư duy đầy ngã tính thường tình, vắng mặt của tham ái và chấp thủ. . . . Thế giới quả nhiên là tuyệt vời và tươi đẹp biết bao khi chúng ta nhìn thấy được ‘tất cả chúng sanh đều là Một và mỗi Một Chúng sanh là Tất cả?’ nghĩa là không còn ranh giới giữa Ta và Người, nước ta, dân ta và nước khác, dân khác v..v.. Có phải đó là lúc ‘Thế giới hoà bình chúng sanh an lạc’, không còn chiến tranh khủng bố, không còn trộm cắp giết người, không còn nhà tù, trại giam v..v.. gì nữa cả, không còn cả địa ngục nữa, có phải không? Chữ ‘ngã’ nhỏ xíu này mà có khả năng phá hoại hơn hằng triệu tấn TNT vì nó đã làm nổ nhiều vùng trên quả đất , làm nhiều triệu người chết do chiến tranh của kỳ thị, thù oán . . . mà nó đã gây ra !

4) Sự sự vô ngại pháp giới :Giáo lý Hoa Nghiêm dạy rằng tất cả mọi pháp đều trống rỗng, rằng hai mặt của Không là Tĩnh( Lý) và Động ( Sự) đều cùng lúc tồn tại, xuyên suốt vào nhau, không ngăn ngại. Mỗi hiện tượng đều đồng nhất với hiện tượng khác. Sự sự vô ngại pháp giới nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng trong thế gian tuy thiên hình vạn trạng nhưng vẫn ăn khớp nhau, nương tựa lẫn nhau, dựa vào nhau mà có (‘cái này có mặt vì cái kia có mặt, cái này sinh vì cái kia sinh, cái này diệt vì cái kia diệt’) . Ví dụ thời gian và không gian dung thông với nhau. Vật lý học cổ điển chia ra thời gian và không gian ra thành như là 2 đại lượng khác nhau, được đo bằng những đơn vị khác nhau; đơn vị của thời gian là giây đồng hồ (second = sec.) còn đơn vị của không gian là đơn vị của chiều dài (centimet, mét, km, v..v..). Ngày nay, với khoa học tương đối của Einstein, với ngành vật lý không gian, với ‘không gian Toán học n chiều’ v..v.. người ta không còn tách riêng thời gian và không gian nữa. Thật vậy, ví dụ muốn nói về khoảng cách giữa mặt Trời, mặt Trăng hay một ngôi sao nào đó với quả đất, người ta không còn nói là mấy triệu triệu kilômét nữa mà nói là mấy ‘năm ánh sáng’ hay là mấy trăm năm, mấy triệu năm ánh sáng v..v.. ’ - đó là khoảng cách mà ánh sáng phải mất thời gian bao lâu mới đi đến (vận tốc ánh sáng là 300.000km/sec). Danh từ ‘quang niên’ hay ‘1 năm ánh sáng’ là khoảng cách ánh sáng đi trong 1 năm (1 năm = 365x 24x 3600sec. ) vậy 1 quang niên hay 1 năm ánh sáng = 3000.000x365x24x3600 (km) = 9 triệu triệu km = 900 tỷ km .

Nói cách khác, giữa thời gian và không gian không còn ranh giới nữa, và bản thân chúng không còn là 2 đại lượng khác nhau nữa. Ngòai ra như ta đã biết trong bài học ở mục thứ 3) trên đây ‘Lý Sự vô ngại pháp giới’: năng lượng và khối lượng cũng chỉ là một nữa mà! Tương tự như vậy, vật lý học cổ điển với Descartes cho rằng ánh sáng được truyền đi theo đường thẳng, nhưng vật lý học hiện đại với Fresnel, Huyghens, Pflanck v..v.. lại chứng minh rằng ánh sáng được truyền đi theo đường hình sin dưới dạng những làn sóng và những hạt (photon) nữa. Thật ra ánh sáng đã có tự muôn đời, còn những lý thuyết về ánh sáng thì chỉ là những lối nhìn của những nhà khoa học, như những người mù rờ voi, trong nhiều thế kỷ vẫn chưa rốt ráo được sự thật về ánh sáng. Tuy nhiên, ít ra cho đến nay người ta đã đi đến kết luận là những lý thuyết về ánh sáng không hề mâu thuẫn nhau ngăn ngại nhau vì sóng hay hạt, đường thẳng hay đường hình sin chỉ là 2 mặt biểu hiện của ánh sáng mà thôi - đây là điều mà đức Thế Tôn đã thuyết giảng từ cách đây mấy ngàn năm trong nội dung ‘sự sự vô ngại’ của kinh Hoa Nghiêm rồi vậy. J J !!

5) Về Lục Tướng: Lục tuớng là 6 mối liên hệ giữa cái ‘Tất cả’ (= ‘cái toàn thể’) và cái ‘Một’ (= ‘cái riêng lẻ’) trên 3 mặt Thể, Tướng và Dụng. Ngài Pháp Tạng (643- 712) đã đưa ra một ẩn dụ nổi tiếng để giải thích về 4 loại pháp giới và 6 tướng xuất hiện: đó là hình ảnh một con sư tử bằng vàng. Sư tử biểu hiện cho thế giới hiện tượng (Sự); Vàng là biểu hiện của bản chất (Lý ). Vàng không có hình dáng nhất định nhưng xuất hiện dưới dạng nào cũng được. Ở đây,Tổng tướnglà toàn bộ các chi tiết làm thành một tướng trạng đồng nhất (là toàn bộ con sư tử bằng vàng); Biệt tướnglà các phần nhỏ của tổng tướng (= các chi tiết, các bộ phận của con sư tử: đầu, mình, bờm, chân, v..v..) các chi tiết này dều khác với tổng tướng, có hình dáng và chức năng riêng ; đó là tổng và biệt =mối tương quan giũa cái toàn thể và các chi tiết của cái toàn thể ấy .

Đồng tướng: tuy các bộ phận khác nhau nhưng chúng lại hoà nhau trong một tổng tuớng, chúng có liên hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau. Dị tướng:sự khác nhau giữa các bộ phận về tướng trạng của chúng ( = hình thể và chức năng ) ; vậy Đồng và Dị = mối tương quan giữa những bộ phận của cùng một tổng thể và mối liên hệ giữa chúng với tổng thể .

Thành tướng:sự kết hợp của các chi tiết, các bộ phận để tạo thành sự vật hay hiện tượng nào đó (tổng thể ) ; Hoại tướng:sự tan rã của một sự vật hay hiện tượng do các bộ phận không còn kết hợp với nhau nữa . Vậy Thành và Hoại = mối liên hệ của tổng thể với các bộ phận của nó về mặt hoạt động và tác dụng.

Tóm lại, nói đến ‘Tổng, Đồng, Thành’ là nói về mặt bản thể bình đẳng viên dung tự tại vô ngại giữa các pháp về mặt ‘Tĩnh’; còn nói đến ‘Biệt, Dị, Hoại’ là nói về mặt hiện tượng muôn màu muôn vẻ, trong đó mọi sự vật hiện tượng phơi bày những hình tướng & tác dụng khác nhau , những đặc tính riêng biệt, độc đáo của các pháp, tức là nói về mặt ‘Động’ vậy.

Đó là những bài học mà ACE chúng tôi thu nhận được trong buổi học thứ 2 về Kinh Hoa Nghiêm.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2021(Xem: 4748)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4211)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3663)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6945)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 7117)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5137)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 4065)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 3882)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 6050)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11303)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]