Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng Tôi Học Hoa Nghiêm.

10/04/201313:47(Xem: 7520)
Chúng Tôi Học Hoa Nghiêm.

Chúng tôi học Kinh (11)

Chúng Tôi Học Hoa Nghiêm :
Hoa Nghiêm với Tóan Học & Khoa Học Hiện Đại

Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam


Tổ chức GĐPT nói chung, và ACE Huynh trưởng nói riêng, gồm đủ mọi thành phần, không phân biệt giàu nghèo sang hèn, thành thị hay thôn quê, học ‘cao’ hay học ‘thấp’ cho nên khi nói đến ‘Toán học’ hay ‘ khoa học hiện đại’ có nghĩa là Toán học và khoa học cấp phổ thông , chứ không dám lạm bàn đến Toán học và khoa học cao cấp cở hậu Đại học - lảnh vực này đã có những bậc thầy của chúng ta như giáo sư Hồng Dương Nguyễn Văn Hai, GS Trần chung Ngọc, GS Nguyễn Chung Tú . . . đề cập đến rồi.

Sau đây là những bài học thu lượm được trong buổi học hôm nay :

1) Khi bước vào thế giới Hoa nghiêm, về tứ pháp giới, đặc biệt là ‘Sự pháp giới’ chúng ta thấy rất rõ một sự ‘gặp gỡ’ giữa thế giới Hoa nghiêm mà đức Bổn sư đã nói đến từ cách đây mấy ngàn năm với những lý thuyết của vật lý học hiện đại về thiên văn, về nguyên tử , về năng lượng , lượng tử v..v.. chỉ khác nhau về phương diện thuật ngữ : thuật ngữ Phật giáo hay thuật ngữ Hoa nghiêm và thuật ngữ khoa học; chúng tôi đã đề cập một phần trong bài học lần trước, lần này xin bổ sung thêm .

Thật vậy, trong phẩm thứ 5 ( Hoa Tạng Thế giới- Tập I tr. 259 - 353) nói về vô số thế giới ( nhiều như vi trần) với thiên hình vạn trạng hình tướng đặc tính khác nhau :’những thế giới úp, những thế giới ngữa, vô số thế giới có hình xoay chuyển, hình giang hà, hình nước xoáy . . ‘ giăng chéo đan nhau như ‘lưới trời Đế Thích’( lưới Đế châu) . Ở đây, mấy chữ ‘trùng trùng duyên khởi ’ của Hoa Nghiêm được Tổ thứ 3 của Hoa Nghiêm Tông là ngài Pháp Tạng đã dùng sự phản xạ ánh sáng qua các gương phẳng để giải thích ý nghĩa của ‘ lưới Đế châu’ cho nữ hoàng Võ Tắc Thiên đời Đường ( bên Tàu) : ngài cho đốt 1 ngọn nến ở giữa phòng rồi đặt những gương phẳng chung quanh bốn bức tường và cả trên trần cũng như ở sàn phòng. Ánh sáng phản chiếu cho nhiều ảnh của ngọn nến qua các gương phẳng, các ảnh này lại trở thành vật ,được phản chiếu nhiều lần qua các gương phẳng tạo thành vô số ngọn nến (nhưng thực tế chỉ có 1 ngọn nến THẬT còn tất cả đều là ảnh o của ngọn nến đó do sự phản xạ ánh sáng gây ra mà thôi ) Nếu ta lấy ngọn nến đi thì tất cả đều biến mất; nói cách khác: Một là Tất cả, Tất cả là Một và ‘các pháp hiện hành trong vũ trụ chỉ là ảnh tượng của Chân như mà thôi’ . Xong, ngài Pháp Tạng lấy ra một quả cầu thủy tinh nhỏ đặt trên lòng bàn tay và giảng cho Võ Tắc Thiên:’ Trong quả cầu nhỏ bé này hiện ra đầy đủ tất cả các mặt kính và tất cả sự phản chiếu của chúng’ Ngài muốn chứng minh ‘cái nhỏ chứa cái lớn và cái lớn chứa cái nhỏ’ (nói theo ngôn ngữ Hoa Nghiêm là ‘một hạt bụi bao trùm toàn bộ pháp giới’ hay ‘ một hạt cát là cả đại thiên thế giới’ vậy.)

Về điểm này, năm xưa sư cô Như Thủy cũng đã nói cho chúng tôi nghe khi có một chị Phật tử ở Mỹ về kể chuyện bên Tây bên Mỹ, những nơi mà cô ta đã đi du lịch rồi kể chuyện Sàigòn mà mấy hôm nay cô ta đã ở. . . Chúng tôi ngồi nghe, sư cô nói : như vậy đầu óc nhỏ bé của chúng ta đã chứa tất cả những cảnh mà chị này vừa kể, rồi chúng ta còn hồi tưởng lại những người, những cảnh do câu chuyện của chị ấy kể ra nữa ,có phải không ? đầu óc chúng ta không cần phải ‘giãn nở ra’ mà những cảnh, những người cũng không cần phải ‘thu nhỏ lại’; đó là tính vô ngại của không gian còn những chuyện ‘bao la vũ trụ’ mà chúng ta hồi tưởng lại từ thời thơ ấu xa xưa cho đến những suy nghĩ toan tính trong tương lai, phải chăng chúng ta đã thu nhiếp quá khứ và tương lai vào phút giây hiện tại này ? đó là tính vô ngại của cả không gian và thời gian vậy.

2)Vật lý cổ điển chỉ xét đến thế giới vĩ mô ( ở bên ngoài, rộng lớn) còn vật lý học hiện đại không dừng lại ở đó mà còn tiến sâu vào ‘trong lòng nguyên tử’ Ngày xưa nhà hoá học Lavoisier chỉ nói đến phân tử và nguyên tử nhưng ngày nay, không chỉ những nhà khoa học mà cả chúng ta nữa, cũng đều biết rằng nguyên tử chưa phải là phần nhỏ nhất của vật chất , bởi vì bên trong nguyên tử còn có ‘nhân’ và nhiều âm điện tử ( électrons ) chạy chung quanh; rồi trong nhân còn có protons và neutrons nữa . . . . Tương tự, về cơ thể học các nhà sinh vật cho rằng cơ thể con người là do các mô cấu tạo thành mà mô là do nhiều tế bào hợp lại, mỗi tế bào lại do nhiều phân tử , phân tử lại do 2 hay nhiều nguyên tử hợp lại mà thành, nguyên tử lại bao gồm protons, neutrons và electrons . . . . cho nên ‘cái nguyên nhân đầu tiên’ của con người hay của thế giới . . .vẫn không tìm ra . Nhiều lý thuyết, nhiều tranh luận và nhiều chứng minh nhưng đuợc cái này thì ‘kẹt’ cái kia, nên vẫn không đem đến kết quả gì, vậy mới nói đó là thế giới của sinh tử, trong đó người ta muốn ‘chẻ một sợi tóc ra làm bốn’ nhưng vẫn không phát hiện ra được điều gì mới lạ, đó không phải là thế giới lý tưởng ‘ sự sự vô ngại pháp giới’ của Hoa Nghiêm.

Trong thế giới Hoa nghiêm ,với tuệ giác tương tức được diễn bày, cái nhìn của chúng ta được mở rộng : chỉ cần nhìn chiếc lá cây - nhìn thật sâu- ta có thể thấy được cả bầu trời xanh , đám mây trắng, nước, người làm vườn và trăm ngàn yếu tố khác . Nói cách khác ta đã có thể nhìn thấy cả vũ trụ trong chiếc lá cây bởi vì chiếc lá kia không thể một mình hiện diện và tồn tại , mà phải cùng có mặt cùng với mặt trời, nuớc, đám mây v..v..Ta hiểu được một cách sâu sắc hơn cái gì là ‘Một là Tất cả’ và ‘Tất cả là một.’ Rồi khi lá cây héo úa nó sẽ trở thành phân bón cho những cây khác đang lớn lên và làm trở lại lá cây, hoa trái . . . Đó chính là sự sinh hoá vô cùng vô tận , nói theo thuật ngữ Hoa Nghiêm đó là ‘trùng trùng duyên khởi’

3) Bài học trong lần học trước về 4 pháp giới hay vũ trụ quan Hoa Nghiêm là pháp giới được nhìn ‘như -nó -là’ ( as-it-is) , như thật, trong đó thế giới của hiện tương và thế giới của bản chất ‘giao thiệp’ với nhau, trộn lẩn vào nhau một cách hoàn hão, không ngăn ngại (Lý sự vô ngại pháp giới) Còn cái thấy của phàm phu chúng ta là thấy đủ thứ phân biệt , ngăn cách ,chướng ngại, đó là thế giới của sinh tử . Như vậy, chỉ cần thay đổi cách nhìn , cách tư duy, chúng ta có thể biến thế giới sinh tử thành cảnh giới Hoa Nghiêm toàn hảo, như cảnh của Hoa tạng thế giới vậy. ( Tuy nhiên, một chữ ‘đổi’ rất nhỏ này thôi cũng đòi hỏi công phu tu tập và trình độ nhận thức không biết đến bao nhiêu kiếp nữa đây !JJ!!)

Đến đây, ACE chúng tôi không hẹn mà đều nhớ đến Phẩm Tịnh hạnh, phẩm thứ 11 ( tr.452- tr.467), tập I. Phẩm Kinh này rất ngắn nhưng cốt tủy của nó rất ‘vĩ đại’ đó là : sửa đổi cái nhìn; nhìn sao thì sống vậy. Nhìn với đủ thứ phân biệt, với tâm yêu-ghét lấy-bỏ (xây dựng trên bản ngã nhỏ hẹp ích kỷ) thì đó là vướng mắc trói buộc ; nhìn thấu suốt với tâm bình đẳng vô tư thì đó là giải thoát. Sự vĩ đại được thấy ngay khi ngưòi hỏi là Bồ tát Trí Thủ và người giải đáp là Bồ tát Văn Thù - hai vị ‘cao thủ’ của trí tuệ giải thóat- và tổng số các câu hỏi lên tới hơn 100câu ! Bồ tát Văn Thù trả lời : đáp án chung cho tất cả các câu hỏi là Tịnh Hạnh, nghĩa là phải thực hành, đi một bước còn hơn nói 100 chuyện !! JJ!! Thế là ngài văn Thù bắt đầu giảng nói về ‘chìa khóa’ của việc sửa đổi cái nhìn ; đó là Xảo Nguyện ( là sự mong cầu, thỉnh nguyện thiện xảo) . Xảo nguyện là một phương pháp giáo dục cái nhìn, tập nhìn làm sao để cho những’phản xạ’ tâm lý không bị vướng mắc , phiền não. Ngài đề cập đến những chiều sâu của phép Tịnh hạnh : đổi hướng nhìn, Phá móc xích, Trừ kiến hoặc, Thực nghiệm vô ngã. Và phương pháp để thực hiện Tịnh hạnh là từng bước thanh tịnh tâm ý. Ở đây ngài Văn Thù kể lại sinh hoạt bình thường của một ngưòi từ lúc mới phát tâm bồ đề ở nhà cho đến khi thành chú Sa Di ở chùa .. .. với đủ thứ nhân duyên ,hoàn cảnh, điều cốt yếu là ứng với mỗi cử chỉ, hành vi trong mỗi hoàn cảnh, người hành giả đều khởi lên một ‘xảo nguyện’ xuyên qua một bài kệ -phải nói là đại nguyện mới đúng, vì toàn là những nguyện làm lợi ích cho chúng sanh chứ không nghĩ riêng cho bản thân mình, không có cái’ta’ và ‘của ta’ trong đó. Đoạn này ACE chúng tôi rất thích thú vì một số các bài kệ trong đây chính là nội dung cuả ‘Tỳ ni thiết yếu nhật dụng’ mà chúng ta đã biết , và Thầy Nhất Hạnh đã dịch thoát ra tiếng Việt ; ví dụ như

kệ ‘Thức dậy’ :

Thức dậy miệng mĩm cười

Hăm bốn giờ tinh khôi

Nguyện sống cho trọn vẹn

Mắt thương nhìn cuộc đời

Kệ Đánh Răng Súc Miệng:

Đánh răng và súc miệng

Cho sạch nghiệp nói năng

Miệng thơm lời Chánh ngữ

Hoa nở tự vườn Tâm

Kệ ‘Rửa tay’:

Múc nước để rửa tay,

Xin nguyện cho mọi người

Có đôi bàn tay khéo

Gìn giữ trái đất này

( trong phẩm này 2 câu cuối là : ‘có bàn tay trong sạch để giữ gìn (thọ trì) Phật Pháp)

Tuy nhiên, ‘Tỳ ni thiết yếu nhật dụng’ chỉ dành cho các chú Sa di trong chùa còn trong phẩm Tịnh hạnh thì nói về cuộc sống từ khi còn ở nhà với đầy đủ thất tình lục dục , nên ở đây những bài kệ dành cho ‘bồ tát tại gia’ có đầy đủ hình ảnh của cha mẹ, vợ con, v..v.. và với những hình thức hưởng lạc của thế gian, nhưng đã lồng vào những lời nguyện rất thiện xảo, có tác dụng thức tỉnh hành giả một cách rất tài tình ; ví dụ như :

Bồ tát ở nhà

Nguyện rằng chúng sanh

Biết nhà tánh Không

Tránh mọi bức bách

Hay :

Hiếu thảo cha mẹ

Nguyện rằng chúng sanh

Khéo phụng sự Phật

Chăm sóc hết thảy

Vợ con sum vầy

Nguyện rằng chúng sanh

Oán thân bình đẳng

Vĩnh ly tham trước

Được hưởng ngũ dục ,

Nguyện rằng chúng sanh

Nhổ mũi tên dục

Cứu cánh yên ổn

Ca nhạc tụ họp

Nguyện rằng chúng sanh

Vui với chân lý

Biết nhạc là giả

v..v.. và v..v..

Thế cho nên mới nói trước đây chúng ta chỉ thực tập và đem dạy các em áp dụng một phần nhỏ của ‘Tỳ ni thiết yếu’ với vài chục bài kệ, với sinh họat của một chú sa di, còn ở đây có tới trên 140 bài !! JJ!! Hôm nay khi ngồi viết lại bài ‘học kinh Hoa nghiêm’ này , chúng tôi còn nhận được 2 cuốn in 2 Phẩm Hoa Nghiêm ( phẩm Tịnh Hạnh và Phẩm Như Lai Hiện Tướng) do CE dịch và lược giải, Bảo Phật Thánh Hội ấn tống - 2001 ; thật đúng là ‘nóng hổi hổi vừa thổi vừa đọc’ ( thật là một thiểu sót lớn vì chúng tôi không biết được CE là ai và nguồn gốc của Bảo Phật Thánh Hội . Xin ACE nào biết vui lòng soi sáng cho. )

4) Bài học thứ 4 là : Thí nghiệm về phản xạ ánh sáng mà Tổ Pháp Tạng làm cho Võ Tắc Thiên coi đem đến cho ACE chúng tôi một bài học về các mối tương quan giữa vật thật với ảnh ảo - cái nào ảo cái nào thật , không quan trọng ,nhưng cái khả năng được tấm gương phản xạ để tạo thành một ảnh khác , rồi ảnh này lại trở thành vật, cho qua 1 tấm gương khác , một ảnh khác nữa v..v.. bài học này thật sự chỉ đến với ACE trong thời điểm học Hoa nghiêm mà thôi ( chứ bài vật lý về gương phẳng thì ai cũng đã biết từ hồi còn nhỏ, từ năm học lớp 8 kia mà !!!JJ!!) : đó là : hãy tưởng tượng đức Phật đang ngồi trước mặt ta và đang giảng Pháp cho ta ( chúng ta) , xin hỏi : đó có phải là mối liên hệ hai chiều giữa người nói (đức Phật) và người nghe (ta) hay không? Thật vậy, nếuta tưởng tượng như có một tấm kính đặt trước mặt đức Phật và ta ; tấm kính (vô hình) có khả năng phản chiếu đức Phật và ta; nghĩa là trong phòng bây giờ có Đức Phật và ảnh của Ngài, ta và ảnh của ta . Trong đại chúng có 3 ý kiến :

* đó là mối tương quan 4 chiều, trong đó:

a) đức Phật đang giảng Pháp và ta đang lắng nghe ( quan hệ 2 chiều)

b) đức Phật trong tâm ta đang giảng pháp và người ở trong tâm Phật đang lắng nghe ( 2 chiều khác)

**quan hệ 4 chiều, trong đó:

  1. đức Phật đang thuyết pháp và ta đang lắng nghe ( quan hệ 2 chiều)
  2. đức Phật trong tâm ta đang lắng nghe đức Phật bên ngoài thuyết pháp ( 2 chiều)

*** nếu tưởng tượng thêm 1 chút là tấm gương đó ở trong ‘phòng gương’ thì lúc đó không chỉ có ảnh của đức Phật và ảnh của ta (chúng ta) mà là có vô số ảnh rồi - cái nào thật cái nào ảo ? có bao nhiêu mối quan hệ ? Thật hay ảo có còn quan trọng chăng ? có bao nhiêu mối quan hệ có còn quan trọng không ? v..v.. Chúng ta hãy dừng lại 1 chút để nhớ về lời dạy của đức Phật trong kinh Kim cang đi :

Hết thảy các pháp hữu vi ( Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng, như huyễn, như bọt nước Như mộng, huyễn, bào ảnh

Như sương mai, như ánh chớp Như lộ diệc như điển

Nên khởi lên cái nhìn như vậy Ưng tác như thị quán)

Vì không có thầy Cố vấn giáo hạnh ở đây nên không biết câu hỏi này có nên đặt ra không và câu trả lời nào thích hợp . Tuy nhiên ý kiến thứ 3 với lời nhắc nhở đến kinh Kim Cang của bạn ấy làm ACE chúng tôi thật tình giật mình tỉnh thức.

5) Có một bạn đem điều tâm đắc của mình ra chia xẻ với Chúng ; đó là trong khi học Hoa Nghiêm đến phẩm thứ 30- phẩm A tăng kỳ - bạn ấy mới biết được na do thalà gì và mới phát hiện đức Phật đã đọc tên được những số vô cùng lớn cách đây mấy ngàn năm , trong khi đó, cho đến bây giờ chúng ta cũng chỉ đọc tên được đến số 10 lũy thừa 12 = 1triệu triệu mà thôi . Này nhé, ở trang 170 tập III , phẩm A tăng kỳ , đức Phật nói :

(1 lạc xoa = 10 vạn tức là 100.000 =10 lũy thừa 5 và câu chi lần câu chi nghĩa là ‘bình phương của câu chi’ ):

100 lạc xoa =1 câu chi ; câu chi lần câu chi = 1 A giu đa ; A giu đa lần a giu đa = na do tha ; na do tha lần na do tha = 1 tần bà la ; Tần bà la lần Tần bà la =1 căn yết la ; căn yết la lần căn yết la = 1 A già la ; A già la lần A già la = 1 tối thắng v..v..

Nói theo ngôn ngữ toán của chúng ta ngày nay là :

"Mười lũy thừa mười nhân mười lũy thừa mười bằng mười lũy thừa hai mươi; mười lũy thừa hai mươi nhân mười lũy thừa hai mươi bằng mười lũy thừa bốn mươi; mười lũy thừa bốn mươi nhân mười lũy thừa bốn mươi bằng mười lũy thừa tám mươi; mười lũy thừa tám mươi nhân mười lũy thừa tám mươi bằng mười lũy thừa 160; mười lũy thừa 160 bình phương bằng mười lũy thừa 320; ... ... ...; số đó bình phương bằng mười lũy thừa 101 493 292 610 318 652 755 325 638 410 240; số đó bình phương làm thành một a tăng kỳ (incalculable=không thể tính toán được); a tăng kỳ lũy thừa bốn làm thành một vô lượng (measureless= không thể đo lường được ); vô lượng lũy thừa bốn làm thành một vô biên (boundless); vô biên lũy thừa bốn làm thành một vô đẳng (incomparable= không thể so sánh được ); vô đẳng lũy thừa bốn làm thành một bất khả sổ (innumerable); bất khả sổ lũy thừa bốn làm thành một bất khả xưng (unaccountable); bất khả xưng lũy thừa bốn làm thành một bất khả tư (unthinkable); bất khả tư lũy thừa bốn làm thành một bất khả lượng (immeasurable); bất khả lượng lũy thừa bốn làm thành một bất khả thuyết (unspeakable); bất khả thuyết lũy thừa bốn làm thành một bất khả thuyết bất khả thuyết (untold); bất khả thuyết bất khả thuyết bình phương làm thành bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển."

Thế đấy, từ 1 ‘căn yết la’ = 10 lũy thừa 112 !! JJ!! là ta đã không có tên gọi nữa nhưng đức Phật thì cứ gọi tiếp cho tới 5 trang kế tiếp ; các bạn cứ tưởng tượng xem từ ‘lạc xoa’ đến ‘căn yết la’ là mới có 5hàng , mà số lượng đã lên tới 10 lũy thừa 112 ! vậy mà đây Phật cứ gọi tên như vậy cho tới thêm 5 trang nữa cho đến khi đến cái mà đức Phật gọi tên là ‘bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển’ mới chịu ngưng. Hèn gì ngày xưa khi còn bé đức Phật đã nổi tiếng giỏi Toán nhất, đã đếm được đến những con số không ai hình dung nỗi ! Tài năng tóan học của ngài cũng đã được kể lại trong Lalitavistara ( Phổ diệu Kinh) rằng trong 1 cuộc thi đếm số lượng mà ngài đã thắng giải, ngài đã làm cho vị giám khảo phải qùy xuống bái phục! Đây là một ngạc nhiên thích thú của ACE chúng tôi mặc dù không ai đọc nỗi 1 lần những con số khổng lồ ghi ở đầu phẩm này khi đức Phật trả lời câu hỏi của Tâm Vương Bồ Tát về ‘thế nào là a tăng kỳ, thế nào là ‘bất khả thuyết bất khả thuyết.’ Thật đúng là ‘trí Phật sáng ngời như Trăng sáng’

6) Mặc dù pháp giới trùng trùng vô tận nhưng đức Phật đã vì Bồ tát Tâm Vương mà ‘tóm tắt’ những cái vô cùng nhỏ (trên đầu mỗi sợi lông) chứa đựng những cái vô cùng lớn ( sơn hà đại địa) để mô tả pháp giới nhiệm mầu kỳ diệu của Hoa nghiêm ; chúng ta hãy nghe (tr. 174-tr.181) :

"Bất khả ngôn thuyết bất khả thuyết

Sung mãn tất cả bất khả thuyết

Trong những kiếp bất khả ngôn thuyết

Nói bất khả thuyết chẳng hết được.

Bất khả ngôn thuyết các cõi Phật

Thảy đều nghiền nát làm vi trần

Trong một trần, bất khả thuyết cõi

Như một, tất cả đều như vậy.

... ... ...

Ở trên bất khả thuyết đầu lông

Đều có cõi tịnh bất khả thuyết

Nhiều thứ trang nghiêm bất khả thuyết

Nhiều thứ kỳ diệu bất khả thuyết."

. . .

"Chỗ một đầu lông cõi lớn nhỏ

Tạp nhiễm thanh tịnh cõi thô tế

Tất cả như vậy bất khả thuyết

Mỗi mỗi rõ ràng phân biệt được.

Đem một cõi nước nghiền làm bụi

Bụi đó vô lượng bất khả thuyết

Trần số vô biên cõi như vậy

Đều đến đồng nhóm đầu một lông.

Những cõi nước này bất khả thuyết

Đồng nhóm đầu lông không chật hẹp

Chẳng khiến đầu lông có thêm lớn

Mà những cõi kia chung đến nhóm.

Trên lông tất cả những cõi nước

Hình tướng như cũ không tạp loạn

Như một cõi chẳng loạn các cõi

Tất cả cõi nước đều như vậy."

v..v.. và v..v..

    • đến dây ACE chúng tôi phải hiểu nghĩa và làm quen với số lượng ‘bất khả ngôn thuyết bất khả thuyết’của ngài rồi !-

Qua 6 bài học trên đây, ACE chúng tôi kết thúc buổi học Kinh hôm nay và cũng tạm kết thúc học Kinh Hoa Nghiêm để đi qua Kinh Duy Ma Cật.

Một bạn vừa ‘lai tỉnh’- ra khỏi thế giới Hoa nghiêm làm bạn ấy ‘ngây ngất’ - đọc tặng mọi người bài thơ bạn ấy vừa sáng tác, tạm gọi là ‘tức cảnh Hoa nghiêm’ như sau :

Theo em lên tầng phi tưởng

Chợt nghe sắc tướng đi vong

Ngàn lời thoắt hoá thành không

Dấu chân trên cát mênh mông thiên đường

Lạnh tanh nhìn bóng tịch dương

Dửng dưng ảo ảnh chiều buông lặng lờ

Ta nhìn em- lạ tuổi thơ

Rồi nhìn ta lại - Dại khờ như xưa

Trăng tròn rung ánh sao thưa

Có ngôi tinh đẩu gọi mùa Đông qua

Ta nhìn em- lại nhìn ta

Dường như mình đã tiêu pha một đời.

Tài liệu tham khảo:

Kinh Hoa Nghiêm (4 tập- Thầy Trí Tịnh Việt dịch)

Thiền Luận Suzuki ( quyển 3 - Thầy Tuệ Sỹ Việt dịch)

Phật Học ( Bài ‘ Viên Dung Vô Ngại’ của GS Hồng Dương )

Kinh Hoa Nghiêm-Phẩm Tịnh Hạnh ( CE dịch và lược giảng-

Bảo Phật Thánh Hội xuất bản -2001)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 9646)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6892)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 9304)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5674)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5584)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6344)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4851)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5465)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 5069)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5973)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]