Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh Duy Ma Cật (tt) ( 13)

10/04/201313:46(Xem: 9233)
Chúng tôi học Kinh Duy Ma Cật (tt) ( 13)

Chúng tôi học Kinh (13)

Chúng Tôi Học Hoa Kinh Duy Ma Cật

Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi Thăm Bệnh

(Văn Thù Vấn tật)

Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam

Ðây là phẩm mong đợi của ACE chúng tôi, cũng là của mọi người học Kinh DMC , vì sao?- Vì trong phẩm này ngài Văn Thù Sư Lợi chịu đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật . Sau khi tất cả mười mấy vị đại đệ tử Phật đều đưa ra lý do chính đáng để từ chối thăm bệnh DMC, đức Phật bèn phó thác cho ngài Văn Thù Sư Lợi công việc ấy ; ta hãy nghe: ‘’Phật bảo văn Thù Sư Lợi: Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật . Văn Thù Sư Lợi bạch Phật : Bạch Thế tôn, bậc thượng thân kia không dễ đối đáp, vì ông ấy rất thâm đạt thật tướng, khéo nói phép mầu, trí huệ vô ngại, biện tài thông suốt, thấu rõ phương pháp tu trì của tất cả bồ tát, thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ phương tiện đều được rốt ráo. Tuy thế, con xin vâng lệnh thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh ông ấy.’’

Như chúng ta đã biết, Văn Thù Sư Lợi là ai? -là nhân vật biểu trưng cho Trí tuệ Phật, ngài được mệnh danh là ‘’Thầy của các đức Phật’’cũng do ý này ; như thế cuộc gặp gỡ giữa Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi tất nhiên là ‘’ kỳ phùng địch thủ’’ báo hiệu là rất hấp dẫn, đâu có ai có thể bỏ qua không tham dự? Vì vậy, trong đại chúng có 8000 Bồ tát, 500 Thanh Văn và 5000 thiên tử cùng với các vị đại đệ tử Phật đều tháp tùng ngài Văn Thù đi vào thành Tỳ Da ly thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật.

Lúc đó Duy Ma Cật dùng sức thần thông dọn căn nhà thành trống không, đồ dạt cũng không, người hầu cũng không luôn, chỉ có 1 cái giường ông nằm mà thôi. Ðối với ACE chúng tôi, trong buổi học Kinh hôm nay, mỗi một lời nói, cử chỉ và việc làm của 2 ngài Văn Thù và Duy Ma đều là những bài học vi diệu, mà chúng tôi phải hiểu ý nghĩa ẩn chứa trong đó . Trước hết, ngài DMC chào ngài Văn Thù :

‘’Quí hoá thay ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến ; tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.’’

Ngài Văn Thù ‘’đáp lễ ‘’ ngay : ‘’Phải dấy cư sĩ ! nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi. Vì sao ? Ðến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có thấy tức là không thấy’’

Chỉ mới chủ khách chào nhau ta đã thấy ‘’ cao siêu’’ rồi. Thật vậy, bồ tát thấy được sự giả hợp của các pháp , tất cả là duyên sanh nên ‘’đến, đi’’ đều không thật thể, bồ tát thấy là thấy cái thật tướng-cái tánh Không- của các pháp đó chứ không phải thấy có đến ,đi. Vì vậy ngài Văn Thù xác nhận thật sự không có đi không có đến , vì thời gian cũng là pháp sinh diệt, nên đâu có xác định được khi nào ‘’đi’’ khi nào ‘’đến’’- khi ‘’nói’’ đi tức là chưa đi , đi rồi thì không còn đi nữa v..v. . ( liên hệ với Trung Quán Luận của ngài Long Thọ.) Ðọan đối thọai này làm chúng ta nhớ đến câu chuyện một bà lão bán quán khi tiếp chuyện một thiền sư vào quán kêu ‘’điểm tâm’’ thì bà cụ hỏi: ‘’ tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, ngài diểm cái tâm nào?’’ Vị thiền sư không trả lời được. Còn Văn Thù thì trả lời ngay theo tinh thần Kim Cang (Như Lai vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ- đi không từ nơi đâu , đến không chỗ tới) . Duy Ma chào Văn Thù bằng một câu hỏi về không gian, Văn Thù đáp lễ bằng một câu trả lời về thời gian ; thật là một cuộc đối đáp tuyệt vời. Tất nhiên ở đây không có chuyện tranh chấp, hơn thua nên không có ai thắng ai bại mà chỉ có những mẫu đối thoại nhằm điếu chỉnh cái nhìn sai lạc của đại chúng mà thôi. Ðây là bài học thứ nhất cua ACE chúng tôi.

Qua đọan khởi đầu hai ngài chào hỏi nhau , chúng ta thấy rõ hai ngài đã vượt ra ngoài’’ngã chấp’’ và ‘’pháp chấp’’ rồi, không thấy ‘’có người có ta’’ ‘’có đi có đến’’và cái ‘’thấy’’ cũng chỉ là cái bóng dáng của nhãn thức mà thôi ! Ðến đây , ngài Văn Thù Sư Lợi trở về nhiệm vụ thăm bệnh của mình và hỏi ngài Duy Ma Cật rằng :

‘’ Cư sĩ ! bệnh của ông có kham nỗi không? Ðiều trị có bớt không? Bệnh không tăng chứ ? Thế tôn ân cần hỏi thăm Ông nhiều lắm đó . Bệnh cư sĩ nhân đâu mà sanh? đã bao lâu rồi ? Bao lâu nữa thì hết bệnh ?’’

Ngài Duy ma Cật trả lời: ‘’ Bệnh tôi từ nơi si, ái mà sanh . Tôi bệnh vì chúng sanh bệnh . Khi nào chúng sanh hết bệnh thì tôi lành bệnh . Ví như ông trưởng giả kia chỉ có một đưá con, nếu người con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh theo, con lành bệnh thì cha mẹ cũng hết bệnh. Bồ tát cũng vậy, thương tất cả chúng sanh như con một của mình, nên chúng sanh bệnh thì bồ tát cũng bệnh, chúng sanh hết bệnh thì bồ tát lành. Bồ tát bệnh là do lòng đại bi. Ở đây chúng ta gặp lại ‘’bệnh hạnh’’ của Bồ tát, nghĩa là thị hiện có bệnh cũng là một hạnh của bồ tát. Chúng sanh đến cuộc đời này là vì nghiệp lực, phải chịu sự chi phối của sinh, lão, bệnh, tử ; Bồ tát đến cõi này vì cái nguyện đại bi nên thị hiện cũng có thân, cũng có bệnh nhưng không hề nhàm chán vì cái thân bất tịnh này, không đau khổ vỉ bệnh hoạn nay ốm mai đau v..v.. đó là chỗ khác nhau giữa phàm phu chúng ta và hàng bồ tát; đây là bài học thứ haicủa ngày hôm nay.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: ‘’nhà này tại sao trống trơn và cũng không có người hầu ?’’

Duy Ma Cật đáp: ‘’ Cõi nước của chư Phật cũng đều không’’

**Tại sao DMC nói như vậy trong khi chúng ta được đức Phật Thích Ca giới thiệu cõi Cực Lạc chẳng hạn , có đủ lưu ly, xa cừ mả não v..v..có chim Ca lăng tần Già, Cọng mạng v..v.. ? - chữ ‘’không’’ của ngài DMC dùng đây có ý nghĩa sâu hơn 1 chút : đó là tất cả chư Phật do tâm không dính mắc với phiền não đau khổ , tâm không chấp trước nên các cõi nước đều thanh tịnh (‘’ Tâm tịnh tức Phật dộ tịnh’’). Ðâylà bài học thứ ba

Sau đó là một chuỗi dài những câu hỏi do ngài Văn Thù Sư Lợi đưa ra và ngài Duy ma Cật trả lời tức khắc:

- Lấy gì làm không ?

- Lấy không làm không

- Ðã không thì cần gì phải không ?

- Vì không phân biệt không nên không

- Không, có thể phân biệt được ư?

- Phân biệt cũng không .

-Không phải tìm ở đâu?

-Tìm ở trong 62 món kiến chấp

-62 kiến chấp tìm ở đâu?

- Tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật

- các pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu ?

- Phải tìm nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh . Rồi Duy Ma Cật nói tiếp: ‘’ ngài hỏi tại sao tôi không có gia nhân ? - Vì tất cả chúng ma và các ngọai đạo đều là gia nhân của tôi. Vì sao? vì chúng ma ưa sinh tử mà bồ tát ở nơi sinh tử không bỏ; còn ngoại đạo ưa các kiến chấp mà bồ tát ở nơi các kiến chấp không động’’

Lại hỏi: - Bệnh của cư sĩ thuộc tướng gì ?

- bệnh của tôi không hình không tướng không thể thấy được

- Bệnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?

- Không phải hiệp với thân vì ở ngoài thân, cũng không phải hiệp với tâm vì tâm như huyễn.

- Trong 4 đại bệnh thuộc về đại nào?

Bệnh không thuộc địa đại cũng không lìa địa đại; thủy đại, hỏa đại và phong đại, cũng lại như thế.

- Bồ tát an ủi một bồ tát đang bệnh như thế nào?

Nói về sự vô thường của thân mà đừng nói ghê tởm và từ bỏ thân. Nói về thân khổ đau mà không nói niết bàn an lạc; nói về vô ngã của thân mà vẫn nói về sự giảng dạy và hướng dẫn chúng sanh . . . .

- Bồ tát đang bệnh làm sao để chế ngự tâm mình?

Bồ tát đang bệnh nên nghĩ rằng : bệnh này đến từ những phiền não và diên đảo vọng tưởng của nhiều đời trước.

. . . .

Ðến đây, ACE chúng tôi phải trở lui lại phần đối thoại hấp dẫn của hai vị ‘’thượng thừa’’để mỗi người nói lên cái hiểu của mình_ những bài học thu lượm dược_ qua việc đọc sách hay qua bài giảng của qúy thầy .

** bài học thứ 4 : lấy gì làm không? - Lãy không làm không= tức là do hết phiền não, hết chấp trước mà nó ‘’không’’ chứ không ‘’làm’’ gì cả.

**bài học thứ 5: ‘’ 62 kiến chấp phải tìm ở đâu?’’ ‘’-phải tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật’’ = với 62 kiến chấp ( của ngoại đạo) đó nếu chúng ta không chấp, không động, không loạn, không lo âu sợ hãi thì ngay đó là được giải thoát vậy .

**bài học thứ 6: ‘’ các pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?’’ ‘’- tìm ở nơi tâm hạnh của chúng sanh’’ Vì sao? - Nếu tâm chúng sanh không còn phiền não, vọng tưởng thì đó là chính là cõi Phật thanh tịnh chứ đâu có ở nơi nào khác?

**bài học thứ 7:‘’tại sao không có người hầu? ( gia nhân) ’’ ‘’- tất cả chúng Ma và ngoại đạo đều là gia nhân của tôi’’ = ma thì thích sinh tử, bồ tát thì không ngại sinh tử, dấn thân vào trong sinh tử thân cận với ma quân ,để độ chúng Ma ( vậy nên nói chúng Ma là gia nhân của Ông) ; còn ngoại đạo thì chấp đủ thứ ( 62 kiến chấp) nhưng tất cả những chấp nhất đó bồ tát không dao động, không dính mắc, không nghi ngại, cái thấy của bồ tát đúng như thật nên ngoại đạo cũng được bồ tát coi như gia nhân, thân cận để độ họ.

**bài học thứ 8:‘’bệnh của ông thuộc tướng nào?’’ ‘’-bệnh tôi không hình không tướng không thể thấy được’’ = như ta đã biết, vì lòng đại bi mà bồ tát bệnh, vì chúng sanh bệnh mà bồ tát bệnh, bệnh này không phải do nghiệp mà do nguyện cho nên nói ‘’không hình không tướng’’ là vì vậy .

**bài học thứ 9:‘’Bồ tát an ủi bồ tát có bệnh như thế nào?’’ ‘’-nói thân vô thường mà đừng nói nhàm chán, nói thân khổ đau mà không nói niết bàn an lạc; nói về vô ngã mà vẫn giảng dạy và hướng dẫn chúng sanh’’ = dù thân tứ đại này vô thường, vô ngã nhưng bồ tát phải mượn nó để làm lợi ích chúng sanh không bị kẹt vào ‘’cứu cánh niết bàn tịch tĩnh’’

**bài học thứ 10: Bồ tát đang bệnh chế ngự tâm mình bằng cách nghĩ rằng: bệnh này đến từ phiền não, điên đảo vọng tưởng trong nhiều đời nhiều kiếp trước, nó không thật có ; vì sao? - vì thân này là tứ đại giả hợp ; nếu ta không tham đắm, không chấp ngã thì thân này không có ‘’chủ’’ _ đâu có ai bệnh , có ai chịu đau đớn đâu ?

(ACE chúng tôi dặn dò nhau ‘’khi nào đau răng, hay cảm cúm, hãy rán nhớ bài học này nha!’’ JJ!!)

Ðó là những bài học mà ACE chúng tôi đã thu lượm đuợc khi học phẩm này. Căn nhà của Duy Ma Cật có thật trống trơn không, có chứa được phái đoàn gồm các vị đệ tử Phật và 8000 bồ tát, 500 Thanh Văn và 5000 thiên tử đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi hay không . . . thật tình ACE chúng tôi chưa hiểu được, nhưng sự gặp gỡ giữa vị đại trí Văn Thù Sư Lợi và vị cư sĩ nổi tiếng đai bi đại hạnh Tịnh Danh Duy Ma Cật cùng với những lời đối đáp, tung hứng giữa hai đại nhân vật này đã làm bừng sáng trong tâm tư ACE chúng tôi thật nhiều điều kỳ diệu. Do vậy, ACE chúng tôi không hề thấy cái gì hay quan tâm đến cái gì ngoài sự kiện hai ngài thay phiên nhau soi sáng cho đại chúng qua nghệ thuật hỏi đáp sắc sảo ‘’ mỗi người mỗi vẻ’’ của họ; như vậy rõ ràng là căn nhà của Duy Ma Cật quả thật không có ai hết, không có cái gì hết rồi, phải không các bạn ? ? !!

Tâm Minh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/01/2021(Xem: 5473)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 6192)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6942)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5775)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5268)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5408)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5992)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5169)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4605)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7806)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]