Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúng tôi học Kinh Duy Ma Cật (tt) ( 13)

10/04/201313:46(Xem: 8818)
Chúng tôi học Kinh Duy Ma Cật (tt) ( 13)

Chúng tôi học Kinh (13)

Chúng Tôi Học Hoa Kinh Duy Ma Cật

Phẩm 5: Văn Thù Sư Lợi Thăm Bệnh

(Văn Thù Vấn tật)

Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam

Ðây là phẩm mong đợi của ACE chúng tôi, cũng là của mọi người học Kinh DMC , vì sao?- Vì trong phẩm này ngài Văn Thù Sư Lợi chịu đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật . Sau khi tất cả mười mấy vị đại đệ tử Phật đều đưa ra lý do chính đáng để từ chối thăm bệnh DMC, đức Phật bèn phó thác cho ngài Văn Thù Sư Lợi công việc ấy ; ta hãy nghe: ‘’Phật bảo văn Thù Sư Lợi: Ông hãy đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật . Văn Thù Sư Lợi bạch Phật : Bạch Thế tôn, bậc thượng thân kia không dễ đối đáp, vì ông ấy rất thâm đạt thật tướng, khéo nói phép mầu, trí huệ vô ngại, biện tài thông suốt, thấu rõ phương pháp tu trì của tất cả bồ tát, thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật, hàng phục các ma, thần thông tự tại và trí tuệ phương tiện đều được rốt ráo. Tuy thế, con xin vâng lệnh thánh chỉ của Phật đến thăm bệnh ông ấy.’’

Như chúng ta đã biết, Văn Thù Sư Lợi là ai? -là nhân vật biểu trưng cho Trí tuệ Phật, ngài được mệnh danh là ‘’Thầy của các đức Phật’’cũng do ý này ; như thế cuộc gặp gỡ giữa Duy Ma Cật và Văn Thù Sư Lợi tất nhiên là ‘’ kỳ phùng địch thủ’’ báo hiệu là rất hấp dẫn, đâu có ai có thể bỏ qua không tham dự? Vì vậy, trong đại chúng có 8000 Bồ tát, 500 Thanh Văn và 5000 thiên tử cùng với các vị đại đệ tử Phật đều tháp tùng ngài Văn Thù đi vào thành Tỳ Da ly thăm bệnh cư sĩ Duy Ma Cật.

Lúc đó Duy Ma Cật dùng sức thần thông dọn căn nhà thành trống không, đồ dạt cũng không, người hầu cũng không luôn, chỉ có 1 cái giường ông nằm mà thôi. Ðối với ACE chúng tôi, trong buổi học Kinh hôm nay, mỗi một lời nói, cử chỉ và việc làm của 2 ngài Văn Thù và Duy Ma đều là những bài học vi diệu, mà chúng tôi phải hiểu ý nghĩa ẩn chứa trong đó . Trước hết, ngài DMC chào ngài Văn Thù :

‘’Quí hoá thay ngài Văn Thù Sư Lợi mới đến ; tướng không đến mà đến, tướng không thấy mà thấy.’’

Ngài Văn Thù ‘’đáp lễ ‘’ ngay : ‘’Phải dấy cư sĩ ! nếu đã đến tức là không đến, nếu đã đi tức là không đi. Vì sao ? Ðến không từ đâu đến, đi không đến nơi đâu, hễ có thấy tức là không thấy’’

Chỉ mới chủ khách chào nhau ta đã thấy ‘’ cao siêu’’ rồi. Thật vậy, bồ tát thấy được sự giả hợp của các pháp , tất cả là duyên sanh nên ‘’đến, đi’’ đều không thật thể, bồ tát thấy là thấy cái thật tướng-cái tánh Không- của các pháp đó chứ không phải thấy có đến ,đi. Vì vậy ngài Văn Thù xác nhận thật sự không có đi không có đến , vì thời gian cũng là pháp sinh diệt, nên đâu có xác định được khi nào ‘’đi’’ khi nào ‘’đến’’- khi ‘’nói’’ đi tức là chưa đi , đi rồi thì không còn đi nữa v..v. . ( liên hệ với Trung Quán Luận của ngài Long Thọ.) Ðọan đối thọai này làm chúng ta nhớ đến câu chuyện một bà lão bán quán khi tiếp chuyện một thiền sư vào quán kêu ‘’điểm tâm’’ thì bà cụ hỏi: ‘’ tâm quá khứ bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, ngài diểm cái tâm nào?’’ Vị thiền sư không trả lời được. Còn Văn Thù thì trả lời ngay theo tinh thần Kim Cang (Như Lai vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ- đi không từ nơi đâu , đến không chỗ tới) . Duy Ma chào Văn Thù bằng một câu hỏi về không gian, Văn Thù đáp lễ bằng một câu trả lời về thời gian ; thật là một cuộc đối đáp tuyệt vời. Tất nhiên ở đây không có chuyện tranh chấp, hơn thua nên không có ai thắng ai bại mà chỉ có những mẫu đối thoại nhằm điếu chỉnh cái nhìn sai lạc của đại chúng mà thôi. Ðây là bài học thứ nhất cua ACE chúng tôi.

Qua đọan khởi đầu hai ngài chào hỏi nhau , chúng ta thấy rõ hai ngài đã vượt ra ngoài’’ngã chấp’’ và ‘’pháp chấp’’ rồi, không thấy ‘’có người có ta’’ ‘’có đi có đến’’và cái ‘’thấy’’ cũng chỉ là cái bóng dáng của nhãn thức mà thôi ! Ðến đây , ngài Văn Thù Sư Lợi trở về nhiệm vụ thăm bệnh của mình và hỏi ngài Duy Ma Cật rằng :

‘’ Cư sĩ ! bệnh của ông có kham nỗi không? Ðiều trị có bớt không? Bệnh không tăng chứ ? Thế tôn ân cần hỏi thăm Ông nhiều lắm đó . Bệnh cư sĩ nhân đâu mà sanh? đã bao lâu rồi ? Bao lâu nữa thì hết bệnh ?’’

Ngài Duy ma Cật trả lời: ‘’ Bệnh tôi từ nơi si, ái mà sanh . Tôi bệnh vì chúng sanh bệnh . Khi nào chúng sanh hết bệnh thì tôi lành bệnh . Ví như ông trưởng giả kia chỉ có một đưá con, nếu người con bệnh thì cha mẹ cũng bệnh theo, con lành bệnh thì cha mẹ cũng hết bệnh. Bồ tát cũng vậy, thương tất cả chúng sanh như con một của mình, nên chúng sanh bệnh thì bồ tát cũng bệnh, chúng sanh hết bệnh thì bồ tát lành. Bồ tát bệnh là do lòng đại bi. Ở đây chúng ta gặp lại ‘’bệnh hạnh’’ của Bồ tát, nghĩa là thị hiện có bệnh cũng là một hạnh của bồ tát. Chúng sanh đến cuộc đời này là vì nghiệp lực, phải chịu sự chi phối của sinh, lão, bệnh, tử ; Bồ tát đến cõi này vì cái nguyện đại bi nên thị hiện cũng có thân, cũng có bệnh nhưng không hề nhàm chán vì cái thân bất tịnh này, không đau khổ vỉ bệnh hoạn nay ốm mai đau v..v.. đó là chỗ khác nhau giữa phàm phu chúng ta và hàng bồ tát; đây là bài học thứ haicủa ngày hôm nay.

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại hỏi: ‘’nhà này tại sao trống trơn và cũng không có người hầu ?’’

Duy Ma Cật đáp: ‘’ Cõi nước của chư Phật cũng đều không’’

**Tại sao DMC nói như vậy trong khi chúng ta được đức Phật Thích Ca giới thiệu cõi Cực Lạc chẳng hạn , có đủ lưu ly, xa cừ mả não v..v..có chim Ca lăng tần Già, Cọng mạng v..v.. ? - chữ ‘’không’’ của ngài DMC dùng đây có ý nghĩa sâu hơn 1 chút : đó là tất cả chư Phật do tâm không dính mắc với phiền não đau khổ , tâm không chấp trước nên các cõi nước đều thanh tịnh (‘’ Tâm tịnh tức Phật dộ tịnh’’). Ðâylà bài học thứ ba

Sau đó là một chuỗi dài những câu hỏi do ngài Văn Thù Sư Lợi đưa ra và ngài Duy ma Cật trả lời tức khắc:

- Lấy gì làm không ?

- Lấy không làm không

- Ðã không thì cần gì phải không ?

- Vì không phân biệt không nên không

- Không, có thể phân biệt được ư?

- Phân biệt cũng không .

-Không phải tìm ở đâu?

-Tìm ở trong 62 món kiến chấp

-62 kiến chấp tìm ở đâu?

- Tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật

- các pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu ?

- Phải tìm nơi tâm hạnh của tất cả chúng sanh . Rồi Duy Ma Cật nói tiếp: ‘’ ngài hỏi tại sao tôi không có gia nhân ? - Vì tất cả chúng ma và các ngọai đạo đều là gia nhân của tôi. Vì sao? vì chúng ma ưa sinh tử mà bồ tát ở nơi sinh tử không bỏ; còn ngoại đạo ưa các kiến chấp mà bồ tát ở nơi các kiến chấp không động’’

Lại hỏi: - Bệnh của cư sĩ thuộc tướng gì ?

- bệnh của tôi không hình không tướng không thể thấy được

- Bệnh ấy hiệp với thân hay hiệp với tâm?

- Không phải hiệp với thân vì ở ngoài thân, cũng không phải hiệp với tâm vì tâm như huyễn.

- Trong 4 đại bệnh thuộc về đại nào?

Bệnh không thuộc địa đại cũng không lìa địa đại; thủy đại, hỏa đại và phong đại, cũng lại như thế.

- Bồ tát an ủi một bồ tát đang bệnh như thế nào?

Nói về sự vô thường của thân mà đừng nói ghê tởm và từ bỏ thân. Nói về thân khổ đau mà không nói niết bàn an lạc; nói về vô ngã của thân mà vẫn nói về sự giảng dạy và hướng dẫn chúng sanh . . . .

- Bồ tát đang bệnh làm sao để chế ngự tâm mình?

Bồ tát đang bệnh nên nghĩ rằng : bệnh này đến từ những phiền não và diên đảo vọng tưởng của nhiều đời trước.

. . . .

Ðến đây, ACE chúng tôi phải trở lui lại phần đối thoại hấp dẫn của hai vị ‘’thượng thừa’’để mỗi người nói lên cái hiểu của mình_ những bài học thu lượm dược_ qua việc đọc sách hay qua bài giảng của qúy thầy .

** bài học thứ 4 : lấy gì làm không? - Lãy không làm không= tức là do hết phiền não, hết chấp trước mà nó ‘’không’’ chứ không ‘’làm’’ gì cả.

**bài học thứ 5: ‘’ 62 kiến chấp phải tìm ở đâu?’’ ‘’-phải tìm trong các pháp giải thoát của chư Phật’’ = với 62 kiến chấp ( của ngoại đạo) đó nếu chúng ta không chấp, không động, không loạn, không lo âu sợ hãi thì ngay đó là được giải thoát vậy .

**bài học thứ 6: ‘’ các pháp giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?’’ ‘’- tìm ở nơi tâm hạnh của chúng sanh’’ Vì sao? - Nếu tâm chúng sanh không còn phiền não, vọng tưởng thì đó là chính là cõi Phật thanh tịnh chứ đâu có ở nơi nào khác?

**bài học thứ 7:‘’tại sao không có người hầu? ( gia nhân) ’’ ‘’- tất cả chúng Ma và ngoại đạo đều là gia nhân của tôi’’ = ma thì thích sinh tử, bồ tát thì không ngại sinh tử, dấn thân vào trong sinh tử thân cận với ma quân ,để độ chúng Ma ( vậy nên nói chúng Ma là gia nhân của Ông) ; còn ngoại đạo thì chấp đủ thứ ( 62 kiến chấp) nhưng tất cả những chấp nhất đó bồ tát không dao động, không dính mắc, không nghi ngại, cái thấy của bồ tát đúng như thật nên ngoại đạo cũng được bồ tát coi như gia nhân, thân cận để độ họ.

**bài học thứ 8:‘’bệnh của ông thuộc tướng nào?’’ ‘’-bệnh tôi không hình không tướng không thể thấy được’’ = như ta đã biết, vì lòng đại bi mà bồ tát bệnh, vì chúng sanh bệnh mà bồ tát bệnh, bệnh này không phải do nghiệp mà do nguyện cho nên nói ‘’không hình không tướng’’ là vì vậy .

**bài học thứ 9:‘’Bồ tát an ủi bồ tát có bệnh như thế nào?’’ ‘’-nói thân vô thường mà đừng nói nhàm chán, nói thân khổ đau mà không nói niết bàn an lạc; nói về vô ngã mà vẫn giảng dạy và hướng dẫn chúng sanh’’ = dù thân tứ đại này vô thường, vô ngã nhưng bồ tát phải mượn nó để làm lợi ích chúng sanh không bị kẹt vào ‘’cứu cánh niết bàn tịch tĩnh’’

**bài học thứ 10: Bồ tát đang bệnh chế ngự tâm mình bằng cách nghĩ rằng: bệnh này đến từ phiền não, điên đảo vọng tưởng trong nhiều đời nhiều kiếp trước, nó không thật có ; vì sao? - vì thân này là tứ đại giả hợp ; nếu ta không tham đắm, không chấp ngã thì thân này không có ‘’chủ’’ _ đâu có ai bệnh , có ai chịu đau đớn đâu ?

(ACE chúng tôi dặn dò nhau ‘’khi nào đau răng, hay cảm cúm, hãy rán nhớ bài học này nha!’’ JJ!!)

Ðó là những bài học mà ACE chúng tôi đã thu lượm đuợc khi học phẩm này. Căn nhà của Duy Ma Cật có thật trống trơn không, có chứa được phái đoàn gồm các vị đệ tử Phật và 8000 bồ tát, 500 Thanh Văn và 5000 thiên tử đi theo ngài Văn Thù Sư Lợi hay không . . . thật tình ACE chúng tôi chưa hiểu được, nhưng sự gặp gỡ giữa vị đại trí Văn Thù Sư Lợi và vị cư sĩ nổi tiếng đai bi đại hạnh Tịnh Danh Duy Ma Cật cùng với những lời đối đáp, tung hứng giữa hai đại nhân vật này đã làm bừng sáng trong tâm tư ACE chúng tôi thật nhiều điều kỳ diệu. Do vậy, ACE chúng tôi không hề thấy cái gì hay quan tâm đến cái gì ngoài sự kiện hai ngài thay phiên nhau soi sáng cho đại chúng qua nghệ thuật hỏi đáp sắc sảo ‘’ mỗi người mỗi vẻ’’ của họ; như vậy rõ ràng là căn nhà của Duy Ma Cật quả thật không có ai hết, không có cái gì hết rồi, phải không các bạn ? ? !!

Tâm Minh


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/02/2013(Xem: 10187)
Trước khi nhập điệt, 2500 năm trước, Đức Phật đã giảng pháp lần cuối. Bài pháp thoại này đã đưọc ghi lại trong Kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh -Maha Parinibbana Sutta -Great Passing Discourse) và đã được lưu giữ trong Tam Tạng Kinh điển Pali, những thánh điển của Phật giáo. Trong suốt 45 năm hoằng pháp, Đức Phật đã chỉ dẫn cho chúng sanh bao giáo lý để đến được con đường giải thoát. Ở giai đoạn cuối đời, Đức Phật muốn nhấn mạnh với các đệ tử của Ngài là cần đem những lời giáo huấn đó áp dụng vào cuộc sống.
02/02/2013(Xem: 7616)
You may be surprised to hear that Most Venerable Thich Quang Do has made it known to President Obama and his Administration that Vietnam needs more than ever the service of VOA/ Vietnamese service. He is the supreme Buddhist Leader in Vietnam under House Arrest.
01/02/2013(Xem: 8323)
Đức Phật không cô lập, xa lánh vua A Xà Thế, mà là mở cơ hội cho vua đến với Đức Phật. Phật giáo cố sự đại toàn chép lời Đức Phật đón vua A Xà Thế: “Đại vương! Ông tới đúng lúc. Ta đợi ông đã lâu”. Đốivới trường hợp vương triều A Xà Thế, với một vị vua tàn nhẫn, độc đoán,hiếu chiến, Đức Phật đã tạo môi trường hóa độ như thế. Trường hợp vua AXà Thế là câu trả lời chung cho câu hỏi về mối quan hệ giữa chính quyềnvới Phật giáo trong mọi thời đại. Dù là chính quyền như thế nào, đối với Phật giáo, đó vẫn là mối quan hệ mởcửa, hóa độ, mối quan hệ cho những gì tốt đẹp nhất nẩy mầm, sinh sôi. Bài viết về trường hợp vua A Xà Thế trong quan hệ với Đức Phật và tăng đoànchắc rằng sẽ định hình những nét chính trong bức tranh quan hệ Phật giáo và chính quyền mà chúng ta đang thảo luận.
27/01/2013(Xem: 12269)
Theo truyền thống tín ngưỡng của dân gian, có lẽ hình tượng 2 vị Thần Tài – Thổ Địa không xa lạ gì với người dân Việt Nam.
21/01/2013(Xem: 8385)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi sau này lại từ bỏ. Ngày nay, nhiều người rất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thường thì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vực tinh thần có những đặc tính như thế nào.
18/01/2013(Xem: 8403)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả. Thực ra người nghèo có nỗi khổ của người nghèo, mà người giàu cũng có nỗi khổ của người giàu. Người nghèo vì không chấp nhận cái nghèo, oán ghét cái nghèo, muốn được giàu nên họ khổ. Người giàu sợ bấy nhiêu tài sản chưa đủ làm người khác nể phục, sợ bị phá sản, sợ người khác lợi dụng hay hãm hại mình nên khổ. So ra, cái khổ của người giàu còn
18/01/2013(Xem: 8643)
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích quan niệm về tính Không – một nội dung quan trọng của kinh Kim Cương. Tính Không (Sùnyatà) là một khái niệm khá trừu tượng: vừa thừa nhận có sự hiện hữu, sự “phồng lên” (ở hình thức bên ngoài) của một thực thể, vừa chỉ ra tính trống rỗng (ở bên trong) của thực thể. Vì vậy, tính Không không phải là khái niệm chỉ tình trạng rỗng, không có gì, mà có nghĩa mọi hiện hữu đều không có “tự ngã”, không có một thực thể cố định.
13/01/2013(Xem: 12384)
Sáu mươi và vẫn còn khỏe mạnh, tôi chỉ mới chập chững bước vào tuổi già. Nên giờ đúng là thời điểm tôi cần tham khảo về vấn đề này để phát triển sự can đảm, vì tuổi già là điều khó chấp nhận. Tuổi già thật đáng sợ. Tôi chưa bao giờ chuẩn bị cho tuổi già. Tôi vẫn hy vọng mình còn có thể sống qua nhiều lần sinh nhật nữa, nhưng lại không chuẩn bị cho sự hao mòn trong quá trình đó. Vừa qua tuổi sáu mươi không lâu, các khớp xương của tôi đã cứng, tóc tai biến mất ở chỗ này lại mọc ra chỗ khác, tên tuổi của người khác tôi không còn nhớ rõ, thì tôi phải chấp nhận những gì đang xảy ra cho tôi.
11/01/2013(Xem: 8569)
BA VÒNG QUAY CỦA BÁNH XE ĐẠO PHÁP cùng sự hình thành của kinh điển và các học phái Phật Giáo
09/01/2013(Xem: 7603)
Một hệ thống Giáo dục mới và toàn diện chỉ duy trì những truyền thống tốt đẹp, những gì văn hóa cũ thích hợp với đường hướng giáo dục này. Chính vai trò của nền giáo dục toàn diện là xây dựng một nền văn hoa mới toàn diện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]