Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức dũng của người Phật tử

10/04/201313:43(Xem: 7173)
Đức dũng của người Phật tử

Câu chuyện Phật Pháp :

Vài Ý Nghĩ Nhỏ Về Đức DŨNG của Người Phật Tử


Tâm Minh

Thân kính tặng ACE Áo Lam


Chúng ta thường nghe nói về ‘Cái Dũng của nguời quân tử’ ‘Cái Dũng của phàm phu’, ‘Cái Dũng của Thánh nhân’ v..v... nhưng chúng ta chưa thực sự thực tập hạnh này với tư cách là một Phật tử. Nhân mùa Vía Xuất Gia năm nay, nghĩ đến cái Dũng của đức Phật, đúng hơn là của thái tử Tất Đạt Đa, trong đêm Ngài cương quyết rời bỏ cung vàng điện ngọc vợ đẹp con xinh và ngôi báu đang chờ mình để vượt thành Ca Tỳ La Vệ đi về một nơi vô định, tìm con đường giải thoát cho chúng sinh. Làm thế nào để có được lòng hy sinh cao độ và ý chí sắt đá ấy? Chúng ta hãy đi vào bài học này, cùng nhau chiêm nghiệm và thực hành đức Dũng của người Phật tử .

nghĩa thâm thúy của các từ ngữ Phật học luôn nằm trong phần thực hành, áp dụng vào cuộc sống trước mặt. Do vậy, ở đây, chúng ta xin được nhẹ phần định nghĩa danh từ mà chỉ đi sâu vào ý nghĩa thực hành .

Trước hết, cái Dũng của người Phật tử chỉ có thể được nuôi dưỡng bằng Chánh Niệm , mất chánh niệm, ta không thể thực hành một cách hữu hiệu bất cứ một đức tính nào. Vì vậy ,chúng ta phải thường xuyên tưới tẩm tâm mình bằng những hạt giống của chánh niệm tỉnh thức , nói nôm na là ở bất cứ thời điểm và hoàn cảnh nào, ta luôn luôn ý thức được ta đang làm gì; đừng bao giờ say sưa , không chỉ say rượu, say tình v..v.. mà say nói, say giảng, say ‘ suy nghĩ bao la vũ trụ’ nữa; vì mọi thứ say đều là nguyên nhân của thất niệm .

Tiếp theo, muốn nuôi dưỡng và phát triễn chánh niệm, ta cần phải KIÊN NH"N. Kiên nhẫn, là không nôn nóng, bất an, bồn chồn, nóng nảy v..v..Kiên nhẫn giúp ta nhìn rất rõ nguyên lý Duyên Khởi của đạo Phật: Cái này có mặt vì cái kia có mặt, Cái này sinh vì cái kia sinh, Cái này diệt vì cái kia diệt v..v... Nói nôm na, bât cứ cái gì cũng có nguyên nhân của nó. Người Phật tử không nóng giận khi nghe một người nào đó nói xấu mình, nói xấu tổ chức mình hay đơn vị mình, mà phải bình tâm suy xét, để tìm ra những nguyên nhân gần xa. Nhờ sự chiêm nghiệm bình tỉnh này, ta có thể tìm ra được nguyên nhân sâu xa của sự việc cũng như phương pháp đối trị và còn có thể rút ra những bài học rất hay nữa. Ta có dịp thực tập đức kiên nhẫn để nhìn sâu vào chính mình, soi rọi lại bản thân mình , đoàn thể mình tổ chức mình v..v... Gương sáng của hạnh này trong thời đại chúng ta là đức Đạt Lai Lạt Ma : Chúng ta đều biết rằng đất nước Tây Tạng bị Trung Hoa xâm chiếm tàn bạo và ác độc như thế nào nhưng tại sao đức Đạt Lai Lạt Ma không thù ghét người Trung Hoa? Khi lên lãnh giải thưởng Nobel về Hòa Bình Thế Giới, trả lời câu hỏi này, Ngài nói : Người Trung Hoa đã cướp đi hết những gì chúng tôi có, không lẽ tôi lại để cho họ lấy luôn sự an lạc của mình hay sao ? Rõ ràng đức kiên nhẫn đem lại cho ta sự an lạc nội tâm và một lòng khoan dung vô hạn vậy. Chúng ta đã tu hạnh này chưa? - Thưa chưa! Chỉ nghe ai nói động tới mình một chút là ‘nổi ‘ tam bành lục tặc ’ lên ngay. Còn khi nghe ai khen anh A. chị B. mà không có tên mình thì động lòng tự ái, đố kỵ lên liền; có dịp là đánh phá, dèm pha, bôi nhọ, nói xấu v..v. như chưa hề biết đến lục hòa, tứ nhiếp, hòa thuận tin yêu v..v... mặc dù hằng tháng vẫn đi thọ Bát Quan trai đều đều, nghe quý thầy giảng không thiếu bài nào hết! Chúng ta hãy thực tập đức tính này trong thiền tập: dừng lại mọi hoạt động, ngồi xuống, theo dõi hơi thở, quan sát sự bất an, giận dỗi mỗi khi chúng khởi lên, nhìn sâu vào chúng, lắng nghe chúng thật cẩn trọng. Việc này không đòi hỏi nhiều thời gian mà kết quả lợi lạc vô cùng; nó giúp ta ra khỏi bối rối, căng thẳng hay phiền não một cách mau chóng.

Một yếu tố nữa của đức Dũng là SỰ BUÔNG BỎ. Buông bỏ không chỉ có nghĩa là đừng nắm giữ trong đôi bàn tay mình, mà còn là đừng nắm giữ trong tâm ý mình nữa vì sự nắm giữ là đầu mối của thành kiến, kỳ thị, cố chấp v..v.. đưa đến ưa thích -ghét bỏ, của tâm phân biệt làm cho chúng ta luôn bị dính măc, tự giam hãm mình trong những tư tưởng hẹp hòi, quan điểm cục bộ, ước mơ và hy vọng thì thấp lè tè vì bị hạn chế bởi sợ hãi và bất an, ích kỷ và hẹp hòi; bởi vì bất cứ sự bám víu nào cũng có gốc rễ từ sự trì trệ, ngăn cản mọi sự tiến hóa. BUÔNG BỎ là chấp nhận sự có mặt của vạn pháp NHƯ - CHÚNG - LÀ ( As - It - is) , không hoan hô, không đả đảo, không nhìn chúng dưới lăng kính của thị phi, ưa ghét, hay nhìn chúng dưới những cặp kinh màu vô tình hay cố ý của mình. Chúng ta phải soi sáng mọi sự việc bằng cách nhìn thẳng vào tâm mình, vào thực chất vô cùng dính mắc của nó - như mải mê theo đuổi, bám víu hay phủ nhận, buộc tội v..v..làm cho cái thấy của mình trở nên bị ‘khúc xạ ‘ (gãy), không còn là Chánh Kiến nữa. Sự Buông Bỏ, vì vậy, có công dụng rất to lớn là làm tâm ta trong sáng và đem lại cho tâm nguồn năng lực chữa trị trạng thái bất an, sợ hãi và phiền não. Thực tập Buông Bỏ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ta sẽ cảm nhận rõ ràng rằng: khi ta buông bỏ được một cái gì mà mình từng yêu thích, bám víu thì ta nhận được một niềm an lạc sâu xa hơn trước rất nhiều, nói cách khác, cùng với một sự mất mát nhỏ, ta được một sự thanh thản lớn . Sự Buông Bỏ khó thực hiện nhất là Buông Bỏ Sự Tự Sùng Bái Mình (Ngã Chấp) và Buông Bỏ Tật Đố Kỵ. Để thực tập hai sự buông bỏ này, ta có thể thực hành ‘ hạnh Lắng Nghe ’ và ‘Hoan Hỷ Nghe Tiếng Vỗ Tay Dành Cho Người Khác ’. Lắng nghe những tiếng nói thầm kín khởi lên từ nội tâm ta, lắng nghe tâm tư tình cảm, ý kiến, v..v... của bạn bè, người thân để thông cảm và chia xẻ, hoan hỷ lắng nghe tiếng vỗ tay hoan hô người khác, để đối trị tánh đố kỵ, để niềm vui được nhân lên và để phát triễn tâm khiêm hạ rất cần thiết cho đức Dũng của người Phật Tử .

Yếu tố thứ ba của đức Dũng là KHÔNG PHÊ PHÁN. Tâm ta luôn luôn lăng xăng không bao giờ ngừng nghỉ với những phê phán và đánh giá, so sánh, cho điểm v..v.. Thật vậy, những lúc đang ngồi thiền, đang thực hành sự tỉnh lặng của nội tâm, thì sự huyên náo này càng rõ ràng hơn , những tiếng nói khen chê chính mình hay mọi người chung quanh mình nổi lên rõ rệt hơn bình thường nữa, cụ thể như : mình đã tốt chưa? mình nói có hay bằng anh X hay chị Y chưa? mình có tinh tấn hơn anh Z? Ông A nói như vậy có phải muốn ám chỉ mình không? Bà B. có phải chê mình bỏn xẻn không? Cô C. sao khó chịu quá, cứ chỉnh mình hoài, có phải ganh tị với mình không đây? v..v... và v..v... Những lăng xăng này - do những ưa ghét, lo buồn, bất an, sợ hãi, đố kỵ chính là những độc tố nếu ta nuôi dưỡng và dung túng chúng, để cho chúng chế ngự và tạo áp lực lên tâm mình. Trái lại, nếu ta tập thói quen không phê phán thì những tư tưởng này sẽ đến và ra đi nhẹ nhàng như những đám mây để trả lại cho ta bầu trời tâm yên tỉnh. Thực tập hạnh này: ta tự nhiên quan sát những tâm này sinh khởi trong ta với tâm không phân biệt, không phê phán : đừng vội lo buồn khi nhận ra đó là một tâm địa xấu xa hay mừng rỡ, tự hào vì nó là tâm cao thượng v..v... Nói tóm lại, ta chỉ ‘nhận diện’ chúng với tâm bình thản, không vui buồn, ưa ghét, lấy bỏ. Ta đừng nghĩ rằng làm như vậy...là không biết phân biệt phải trái đúng sai v... v... mà trái lại, với tâm trong sáng, với cái nhìn vô tư, sự thật về sự việc và con người, về trách nhiệm v..v..hiện ra rất rõ ràng và ta tự nhiên thấy được lỗi mình . Đức Phật thường dạy: nước nóng hay lạnh, ai có uống thì tự biết . Có thực tập ta nhận ra điều này ngay và ta hiểu được lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng ‘ Đừng thấy lỗi người, chỉ thấy lỗi mình ’. Thật vậy, qua thực tập ta thấy rằng nhìn thẳng vào tâm mình, đọc được nó và lắng nghe nó mới là điều quan trọng nhất và thích thú nhất , ta không còn thích tìm hiểu lỗi người, lăng xăng, so sánh, đo lường v..v... nữa. Tâm ta hình như sáng hơn, trí ta bền hơn và những bước chân trở về với bản tâm thanh tịnh vững chãi hơn .

Như người mù sờ voi, nguời viết bài này cũng sờ soạng tìm xem thực chất nghĩa chữ Dũng của người Phât tử để nhận diện kịp thời chủng tử xấu cuả tâm phân biệt, những vi khuẩn độc hại của tính ngã mạn,lòng đố kỵ, thói quen chấp thủ làm suy giảm năng lực giác ngộ tiềm tàng trong mỗi chúng ta. Với niềm tin vào đức Phật, Đạo Pháp và chính Tự Tâm Thanh Tịnh, chúng ta sẽ cùng nhau sống Tỉnh thức và trau giồi đức Dũng của người Phật tử, một công việc trong âm thầm không có tiếng vang và phần thưởng nhưng vô cùng cơ bản và quan trọng vì đó là chìa khóa để mở cánh cửa lớn ‘chiến thắng chính mình’ tiến về phía giải thoát khỏi phiền não khổ đau. Công việc tất nhiên là rất nặng nề vì như đức Thế Tôn đã nói ‘tự thắng mình là chiến công oanh liệt nhất’. Trong niềm vui mùa Xuất Gia, xin cầu chúc tất cả chúng ta được tâm sáng chí bền trong tiến trình trở về Phật quốc .

--- o0o ---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2014(Xem: 8248)
Pháp môn mà mình nói tới đó là pháp môn xây dựng tăng thân, được gọi tắt làdựng tăng. Đó cũng là công trình của Bụt, đó là sự nghiệp của Bụt. Ngay sau khi thành đạo, Bụt đã biết rất rõ rằng nếu không xây dựng được một tăng thân thì mình không thể nào thực hiện được sự nghiệp của một vị Bụt. Vì vậy Ngài đã để ra rất nhiều thì giờ và công sức để xây dựng một tăng thân. Ngay trong năm đầu sau khi thành đạo, Bụt đã xây dựng một tăng thân xuất gia gồm có 1250 vị, và tăng thân này đầu tiên xuất hiện tại một rừng kè ở ngoại ô thành phố Rajagraha. Năm Ngài 80 tuổi, Vua Prasenajit (Ba Tư Nặc) có nói một câu rất hay để ca ngợi Bụt về công trình xây dựng tăng thân ấy. Vua nói: Bạch đức Thế Tôn, mỗi lần con thấy tăng thân của đức Thế Tôn là con lại có niềm tin nhiều hơn ở nơi chính đức Thế Tôn.
31/10/2014(Xem: 7647)
Mùa Xuân ta lên núi Hăm hở làm sơn ̣̣đồng Bỏ con đường khói bụi Cho sách vở vời trông... Rời mái trường Vạn Hạnh, còn đang lang thang dạy giờ ở các trường Bồ-đề, ngong ngóng một xuất học bỗng du học, tôi bất ngờ bị Sư Bà áp giải lên núi, sau lời phán quyết chắc nịch: “Con phải học một khóa tu Thiền ba năm với Thượng Tọa, xong rồi muốn đi đâu cũng ̣̣được... Còn bây giờ, dứt khoát là…Không!”.
28/10/2014(Xem: 7975)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9443)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 15022)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8609)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 13370)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8885)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10411)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9811)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]