Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngày-tiếp-nối của Sư Ông Nhất Hạnh (bài viết của Sư Cô Huệ Trân, do Thượng Tọa Nguyên Tạng diễn đọc)

15/10/201817:06(Xem: 11367)
Ngày-tiếp-nối của Sư Ông Nhất Hạnh (bài viết của Sư Cô Huệ Trân, do Thượng Tọa Nguyên Tạng diễn đọc)

ngay ket noi su ong nhat hanh-3
Ngày-tiếp-nối của Sư Ông Nhất Hạnh

Bài viết của Thích Nữ Huệ Trân
Diễn đọc: Thích Nguyên Tạng




 

           Thưa Thầy,

Mỗi lần, khi chợt nghĩ đến Thầy, tâm con lại khởi ngay lên 2 tiếng “Thưa Thầy”. Tự nhiên như thế. Có lẽ, vì nghĩ đến Thầy nên con muốn thưa Thầy những điều con đang nghĩ chăng?

            Từ gần hai thập niên nay, con đã nhiều lần âm thầm “Thưa Thầy” như thế, kể cả thời gian mười năm trước đó, dù chưa được diện kiến Thầy nhưng nhờ được đọc sách Thầy viết mà con có niềm tin là khi con cần nương tựa, cần dìu dắt, con “thưa” thì thế nào Thầy cũng “nghe” thấy.

            Vì sao con có niềm tin này ư? Há chi phải biết vì sao! Cảm nhận được như vậy đã là quá đủ, quá hạnh phúc cho con!

            Thưa Thầy,

            Con chỉ là một đứa con nuôi của Thầy, từ ngày 17 Tháng 2 năm 2008, là ngày con chính thức được thọ giới Sa-Di-Ni.

            Ôi, sao con lại để cái mặc cảm là con nuôi, khi lần đầu đến An Cư Kiết Đông 2007 – 2008, trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa tại Làng Mai, con đã được Thầy “hiểu và thương” như bao con ruột của Thầy, nghĩa là như bao thầy cô trong tăng thân. Có lẽ, dù tình thương trong Thầy bao la không phân biệt nhưng trên thực tế, con vẫn tự biết con chỉ là đứa con, xuống tóc ở một ngôi chùa phương xa và thỉnh cầu được đến thọ giới tại Đại Giới Đàn ở Làng Mai, Pháp quốc. Lời thỉnh cầu của con được chấp thuận. Và đó là hạnh phúc lớn lao đối với kẻ xuất gia muộn màng như con mà còn đủ duyên được tiếp xúc với một pháp môn đang tải đạo vào đời trên khắp hoàn vũ.

            Từ giữa tháng 11 năm 2007, những ngày đầu bỡ ngỡ với không gian, thời gian và cách hành trì đầy chánh niệm và tỉnh thức của tăng thân trong từng phút giây, trong mọi địa điểm, đã khiến con cực kỳ rúng động.

            Có một nơi chốn như thế này giữa cõi ta-bà nhiều uế trược ư?

su ong lang mai

            Trong mùa An Cư Kiết Đông này, Thầy giảng kinh Kim Sư Tử Chương cho đại chúng. Thành phần đại chúng thì hầu như đủ mọi quốc tịch nên Thầy cứ tuần tự, khi ở thiền đường Nước Tĩnh, Xóm Thượng vừa giảng bằng Pháp-ngữ thì buổi kế tiếp ở thiền đường Hội Ngàn Sao, Xóm Hạ sẽ giảng bằng Việt-ngữ và khi xuống đến thiền đường Trăng Rằm, Xóm Mới thì Thầy sẽ dùng Anh-ngữ mà thuyết giảng. Nơi đâu cũng có hệ thống chuyển âm trực tiếp qua 2 ngôn ngữ do chính quý thầy cô Làng Mai phụ trách nên đại chúng dự thính như đang được nghe thẳng từ Thầy. Duy-tuệ-thị-nghiệp hiển lộ nơi đây, tự nhiên, nhẹ nhàng, mà thấu đạt, như lời Thầy từng nhắc nhở, là nghe pháp thoại phải như đón cơn mưa, tắm đẫm đất-tâm, chứ đừng nghe như lấy chậu, hứng để dành mà không biết để dành làm gì!

            Trước mỗi buổi thuyết giảng, quý thầy cô thường chậm rãi đi lên pháp tòa bằng địa hình vòng cung hai bên trái, phải. Sau khi an vị, Thầy thỉnh một tiếng chuông. Tăng thân đồng cất tiếng tụng Bát Nhã Tâm Kinh bằng Anh-ngữ hoặc Pháp-ngữ, rồi niệm Quán Thế Âm bằng Việt-ngữ.

            Lần đầu được có mặt trong không gian đó, con đã xúc động đến rơi lệ. Con không phân biệt được là tăng thân đang tụng hay đang hát. Con chỉ cảm nhận giòng suối âm thanh đó tuyệt vời quá! Suối không chỉ chuyên chở Tâm Kinh trong không gian thiền đường, mà Tâm Kinh như đã và đang bay ra khỏi những khung cửa kính mờ sương, bay lên những vòm cây phủ tuyết trắng, bay xa, bay cao mời gọi mặt trời ….  

            Mở đầu buổi thuyết giảng như thế, trong khung cảnh đầy nghệ thật và thiền vị của ánh nến lung linh, bình hoa nhỏ, thư pháp xúc tích …. nhất nhất đều đơn giản, nhưng là sự đơn giản của chiều sâu tâm linh và nghệ thuật. Từ đó, tâm hồn đại chúng đã nhẹ nhàng được mở ra mà không hay; bởi cánh cửa này nhẹ quá! khéo quá! Như người đang men theo những lối mòn trong rừng, bất chợt tới bìa rừng thì thấy cánh đồng hoa bát ngát gọi mời…

            Bước chân nào mà không hân hoan cất lên, và bước tới.

            Thưa Thầy,

            Cũng trong mùa An Cư Kiết Đông đó, con bất ngờ chứng nhận được phần nào lời Thầy dạy khi thiền hành. Con còn nhớ, đó là ngày Thầy giảng bằng Pháp-ngữ, ở thiền đường Hội Ngàn Sao, Xóm Hạ. Thầy nhắc nhở là khi thiền hành, nếu đặt được chánh niệm vào bước chân thì ta có thể đi như Bụt đi, dù ta đang có khổ đau trong lòng.Hãy ôm ấp nỗi đau mà đi trong an lạc. Hãy để nỗi đau đi cùng ta, với thiên nhiên quanh ta là linh dược. Có thiên nhiên cùng đi, ta sẽ bước được những bước thảnh thơi cho tổ tiên, cho ông bà, cho cha mẹ, cho người ta thương và cả người không thương ta ….

            Đó cũng là ngày giỗ Cha của con.

            Trên đường thiền hành ngập lá phong rơi, đại chúng thong dong theo bước chân Thầy.

            Trên cao, mặt trời đã lên. Mây xanh. Và gió nhẹ.

            Trong con, dù đang ôm ấp niềm đau nhớ Cha nhưng mặt trời vào trong con vẫn bừng sáng!

            Đây rồi! Đúng như lời Thầy từng dạy. Hãy biết đón thiên nhiên vào cùng ta để thiên nhiên với ta là bạn. Những hàng cây khẳng khiu mùa đông, những chiếc lá đang rơi, những bông hoa dại đang nở …. nếu ta biết đón nhận, chúng đều là những yếu tố có thể xoa dịu niềm đau.

            Ngay khi cảm nhận được như thế, thẳm sâu trong trái tim con bỗng thầm thì tiếng vọng: “Cha ơi, con đang bước cho Cha đây! Con cũng đang bước cho Mẹ! Con cũng bước cho Ông Bà và Tổ Tiên …”

            Khi đoàn thiền hành theo dấu tay Thầy, dừng lại, con vẫn cảm nhận bàn chân mình còn ấm hơi Cha.

            Thưa Thầy,

            Có phải vừa rồi con không chỉ bước cho Cha, mà còn được bước cùng Cha?

            Con đã nhặt một lá phong, trên bãi cỏ Thầy ngồi uống trà hôm đó. Con đã ép khô, và viết xuống đó 3 chữ “Tạ ơn Thầy”.

           

su ong lang maisu ong lang mai-2


Một lần thiền hành trong ngày dành cho xuất sĩtại nội viện Phương Khê, Thầy dừng lại, ngồi nghỉ trên một chiếc võng xanh bắc ngang hai thân cây. Chúng con đều hạnh phúc ngồi quanh Thầy. Bất ngờ, Thầy lấy trong túi áo lạnh ra, một trái chanh nhỏ xíu, mầu vàng, đưa về phía con và nói: “Thầy cho Huệ Trân trái chanh này. Đây là trái chanh nhưng không phải để ăn đâu. Trái chanh này là thuốc đó, để ở trong túi, lâu lâu lấy ra ngửi cho khỏe. Giữ được 7 ngày thôi.”

                Khi mang về, con hỏi sư cô cùng phòng thì được sư cô chỉ rõ thêm: “Loại chanh này trồng quanh nội viện Phương Khê, hương của nó là một vị thuốc giúp hơi thở dễ điều hòa, thông khí quản. Sư Ông thương, mới cho biết loại chanh này đó. Thỉnh thoảng em cầm lên hít nhẹ, thở sâu. Khỏe lắm đó!”

            Ôi, những món quà hạnh phúc, những món quà tình thương mà chỉ một  mùa An Cư đầu tiên, đứa con nuôi phương xa cũng cảm nhận được biết bao ân cần, bi mẫn.

            Vì đã được thọ giới Sa-Di-Ni cùng với gia đình Cây Lê nên An Cư Kiết Đông từ giữa Tháng 11 năm 2009 đến Tháng 2 năm 2010, con lại được về Làng dự Đại Giới Đàn Thủy Tiên để thọ giới Thức Xoa Ma Na và sau cùng là Đại Giới Đàn Lắng Nghe, Mùa An Cư 2010 – 2011 để thọ Đại Giới Tỳ-Kheo-Ni.

            Ba mùa An Cư Kiết Đông, được cùng tu tập và sống trọn vẹn trong tình thương của Thầy, của tăng thân, con âm thầm tưới tẩm những hạt mầm tuyệt hảo đó trong hồ-tâm, để ngăn ngừa và chống chỏi với bão giông còn tràn ngập trong cõi tạm này. Lời Thầy khuyên khi con đảnh lễ Thầy, trước hôm rời Làng, con vẫn khắc ghi. Đặt nhẹ tay lên đầu con, Thầy nói nhỏ: “Về bên đó, ráng tu cho giỏi nghe con. Bớt xem báo chí, tránh nghe tin tức thị phi. Chỉ tu và giúp những người khổ đau đang cần giúp”.

            Con chắp tay, cúi đầu “Dạ” khi nước mắt chợt rơi trên búp tay sen.

 

            Từ đó, con chỉ được gặp lại Thầy những lần Thầy sang Hoa Kỳ hoằng pháp. Đặc biệt là những khóa tu tại TV Lộc Uyển, tỉnh Escondido, miền Nam California.
su ong lang mai-3

            Thưa Thầy,

            Từ ngày bất ngờ Thầy bị đột quỵ khi đang trị bệnh tại bệnh viện ở tỉnh Bordeaux, vào tháng 11 năm 2014, Thầy không còn đăng đàn thuyết giảng nữa. Nhưng từ đó tới nay, những khóa tu thường xuyên ở mọi địa danh trên khắp thế giới mà Làng Mai thường tổ chức, đã vẫn tiếp tục, như chưa từng ngừng trệ. Thầy đã chứng kiến được sự tiếp nối mầu nhiệm tràn đầy uy lực và năng lực mà Thầy đã tận tụy trao truyền bao năm cho đàn con.

            Nếu con nhớ không lầm thì không phải sau khi bị đột quỵ Thầy mới nhìn thấy sự tiếp nối, mà khoảng đầu tháng 9 năm 2009, tại YMCA, công viên Estes, tiểu bang Colorado, dự trù có một khóa tu với chủ đề “One Buddha is not enought” (Một vị Bụt thì không đủ) Thầy nhận lời hướng dẫn. Nhưng khi sắp đến giờ lên xe Bus từ tiểu bang Massachusetts để ra phi trường đi Colorado, các thầy cô trong tăng thân tháp tùng mới biết là Thầy không cùng đi.

            Đây là lần đầu tiên trong quá trình hoằng pháp từ nhiều thập niên, Thầy đã bất ngờ không có mặt. Sự việc bất ngờ và bất thường này có thể làm rúng động một số sư cô, sư chú trẻ, nhưng Thầy trấn an là, không có Thầy, sẽ vẫn có khóa tu.

            Sự cố này, chỉ một số thầy cô lớn được biết, để kịp chuẩn bị những gì cần làm. Đó là ở khóa tu trước đó một tháng, Thầy đã ho ra máu! Các bác sỹ nghiêm trọng yêu cầu Thầy nhập viện. Thầy đã nhẹ nhàng nhưng cương quyết bảo rằng, chờ hết khóa tu rồi mới nhập viện. Và Thầy hoàn mãn khóa tu đó, đúng như chủ đề: “Bình An, Hạnh Phúc, Hy Vọng”.

            Không ai biết Thầy bệnh và đáng lẽ phải nhập viện!

            Nhưng sau đó là khóa tu tháng 9 thì các bác sỹ không nhượng bộ nữa. Họ hộ tống Thầy nhập viện ngay. Thầy biết không thể chần chờ sự điều trị lâu hơn nên đã họp các thầy cô lớn trong ban giáo thọ để trách nhiệm thay Thầy trong khóa tu kế tiếp. Thầy đã hoan hỷ nói: “May thay, đây cũng là cơ duyên để Thầy biết Thầy đã có tiếp nối chưa”.


ngay ket noi su ong nhat hanhngay ket noi su ong nhat hanh-2


            Thưa Thầy,

            Từ mấy năm nay, sự tiếp nối mầu nhiệm đã như giòng sông cuồn cuộn xuôi chảy chưa từng ngưng nghỉ. Sông qua nơi nào, đều để lại phù sa mầu mỡ nơi đó, cho đất mầu kết trái nở hoa làm đẹp cho đời. Sự tiếp nối kỳ diệu mà bất cứ ai có chút quan tâm đều dễ dàng thấy được, là sự tiếp nối đó luôn được nuôi dưỡng bền bỉ, chăm sóc cẩn thận, nhẹ nhàng từ những sư em, sư chị, tới sư anh …. Tình thương như những móc xích đan vào nhau, cứ tiếp nối từng giọt nước hòa vào giòng sông, thì tất nhiên, sự tiếp nối sẽ là đại dương vô cùng vô tận, giông bão nào mà ngăn được trùng khơi.

            Thưa Thầy,

            Hẳn là Thầy đã an tâm, nhìn đàn con nương nhau, tự tin và vững chãi bước trên con đường đã chọn lựa để hiến dâng và phụng sự.

            Nhìn hình ảnh Thầy an lạc ngồi trên xe lăn về thăm quê hương, con cảm kích khi thấy rõ là dù thầm lặng, Thầy vẫn đang trao truyền biết bao năng lượng và phước báu cho bất cứ ai được diện kiến Thầy trên các nẻo đường Thầy đi qua.

Con đã không dằn được lòng, để không chia sẻ trong một buổi pháp đàm tại khóa tu “Mở lối yêu thương”trên tu viện Lộc Uyển trong tháng 9 vừa qua. Lời con chia sẻ cùng gia đình Cây Bông Sứ, thầy Pháp Đăng chủ tọa, như vầy:

            Thầy ngồi trên xe lăn       

            Tâm-từ lặng lẽ rải

            Đường thiên lý khôn ngăn

            Thể hiện bao mẫn ái

            Từng vòng xe lăn chậm

            Trên nẻo đường quê hương

            Muôn người nô nức nhận

            Suối nguồn Hiểu và Thương

            Vô-môn-quan rộng mở

            Vô-ngôn thuyết diệu-ngôn

            Pháp-thân truyền pháp-giới

            Ba-la-mật dung thông

            Thầy đi như Thầy đến

            Thầm lặng mà âm vang

            Từng vòng xe lăn chậm

            Mà vượt núi băng ngàn

            Chuyển luân chưa từng nghỉ

            Với thời gian, không gian …

 

            Thưa Thầy,

            Con kính mừng Ngày-Tiếp-Nối của Thầy.

            Thầy còn mãi với chúng con.Như đã 26 thế kỷ, Chư Bụt vẫn còn đây, trong tiếp nối vô thỉ, vô chung, bất sanh, bất diệt ….

TN Huệ Trân

Đứa con nuôi phương xa của Thầy

 

                       

           

           

           

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5594)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5511)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6910)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4293)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9119)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5457)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5082)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5675)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6158)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5171)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]