Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Hiểu Chính Mình

24/07/201810:26(Xem: 6484)
Tìm Hiểu Chính Mình


meditation_tinhtam
Tìm Hiểu Chính Mình

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

 

I. DẪN NHẬP

          Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc. Chúng ta oán trách tại sao cùng một Mẹ một Cha mà ta lại bất hạnh xấu xí mà anh chị ta lại xinh đẹp ưa nhìn. Chúng ta oán hận tại sao chồng hay vợ của chúng ta không thương yêu chiều chuộng chúng ta mà cứ đưa mắt ngắm nhìn người khác. Chúng ta khổ đau khi nhìn thấy con cái nhà hàng xóm học hành giỏi giang mà con cái nhà chúng ta lại ăn chơi đàn đúm không nghe lời dạy dỗ của chúng ta. Chúng ta oán trách ông Trời không công bằng đối với chúng ta một chút nào cả!

          Tâm trạng của chúng ta như thế có phải là do chúng ta quá tiêu cực, quá ích kỷ,  không tự xét mình mà lúc nào cũng phóng tâm ra bên ngoài đổ lỗi hết người này đến người khác, đổ lỗi từ việc nọ đến việc kia, chứ không chịu nhìn lại chính bản thân của chúng ta để hiểu rõ nguyên do vì đâu khiến cuộc sống của chúng ta không được vừa ý.

          Ở đời phàm việc gì cũng có nguyên nhân của nó, không phải tự dưng mà niềm vui nỗi buồn cứ vây quanh lấy mình. Vì thế muốn thoát khỏi những phiền não khổ đau, trước hết chúng ta phải tự tìm hiểu chính bản thân của chúng ta. Chúng ta là người như thế nào? Chúng ta đã sống ra sao trong thời gian qua và hiện tại thái độ sống của chúng ta ra làm sao? Rồi từ đó chúng ta mới lên kế hoạch chọn lựa con đường sống hướng đến thiện lành để cải thiện tình trạng xấu, chuyển hoá nghiệp nhân bất thiện để trong sạch hoá thân tâm.

          Trong Kinh "Nhân Quả Ba Đời", Đức Phật dạy ở đời có 4 hạng người. Một là người từ tối vào tối. Hai là người từ tối vào sáng. Ba là người từ sáng vào tối. Bốn là người từ sáng vào sáng. Trong bốn hạng người này không chừng chúng ta thuộc vào hạng "từ tối vào tối" là hạng người hiện đang đau khổ mà vẫn tiếp tục hành xử ngu muội để tiến sâu vào cảnh khổ không có lối thoát.

 

II. PHẬT DẠY VỀ 4 HẠNG NGƯỜI

          Tại rừng Kỳ-Đà, vườn ông Cấp-Cô-Độc thuộc nước Xá-Vệ, Đức Phật đã giảng cho vua Ba-Tư-Nặc, khi ông vua này nêu thắc mắc với Ngài rằng: Có khi nào người Bà-La-Môn sau khi chết sẽ tái sanh lại trong dòng Bà-La-Môn. Người thuộc dòng Sát-Lợi, Tỳ-Xá và Thủ-Đà-La cũng thế? Đức Phật trả lời:

          - Không thể như vậy được. Đại Vương nên biết trên đời này có bốn hạng người. Đó là:         

                    1) Có người từ tối vào tối.

                    2) Có người từ tối vào sáng.

                    3) Có người từ sáng vào tối.

                    4) Có người từ sáng vào sáng.

          Chúng ta có thể hiểu ý nghĩa về bốn hạng người đó như sau:

          - Hạng người "từ tối vào tối" là hạng người từ nhiều đời trước đã tạo những nhân bất thiện, nên đời này tuy được sanh làm kiếp người nhưng sống trong cảnh nghèo hèn bất hạnh. Nếu phải đi làm để kiếm sống thì bằng những nghề nghiệp thấp kém, hạ tiện. Có những người khổ sở hơn, khi sanh ra đã mang một thân thể bệnh hoạn, xấu xí, có khi không đủ căn phải chịu tật nguyền. Tuy tật nguyền khổ sở nhưng sống rất thọ, họ lê lết tấm thân để trả quả báo gây ra từ đời trước. Cũng có người dù rất ham sống mà phải chịu chết yểu trong đau đớn. Đó là những người sanh ra "từ tối". Đã sanh ra trong hoàn cảnh "tối tăm" như vậy, mà không chịu tu hành, vẫn tiếp tục nuôi dưỡng tâm ý ác, nói năng ác, hành động ác, tạo thêm nghiệp bất thiện. Do những nhân tố xấu đó, mà khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi ác. Cõi ác này chính là "chỗ tối". Nên nói là "từ tối vào tối" là như thế. Trong kinh ghi lại rằng: "Ví như người từ tối vào tối, từ nhà xí vào nhà xí, dùng máu rửa máu, xả ác thọ ác, người từ tối vào tối cũng như thế".

          - Thế nào là người "từ tối vào sáng". Đó là hạng người sống trong đời này đang chịu cảnh khốn khổ giống như hạng người như trên, nghĩa là từ "nơi tối". Tuy sanh ra từ chỗ tối, nhưng họ sớm biết Phật pháp, biết rằng mình khổ là do mình đã tạo nghiệp ác từ đời quá khứ, nên đời này phải trả. Họ biết nguyên nhân do đâu mình khổ nên họ quyết tâm tu hành để chuyển nghiệp. Hằng ngày họ làm những việc thiện dù là những việc rất nhỏ như thấy cây đinh sét nhọn ở ngoài đường, họ lượm lên với tâm lành không muốn người khác dẫm phải. Giúp đỡ những người nghèo khổ hơn họ bằng cách an ủi lắng nghe để người ta nguôi ngoai nỗi buồn. Sống trong gia đình họ làm tròn trách nhiệm của người chồng hay người vợ, dù nghèo khổ vẫn một lòng thuỷ chung. Hằng ngày thay vì nói những lời ác độc, chia rẻ, tạo sự thù oán giữa người này với người kia... thì họ lo đọc kinh niệm Phật hay tu thiền. Trong đầu họ không nuôi những ý nghĩ xấu xa hại người. Tóm lại thân hành thiện, khẩu hành thiện, ý hành thiện. Do nhân duyên thiện lành này, sau khi chết được sanh về cõi lành, hoặc được hoá sanh lên cõi Trời hưởng phước, hay nếu sanh làm người thì không còn chịu cảnh khổ nữa, nên nói là "từ tối vào sáng". Trong kinh ghi rằng: "Ví như có người bước lên chõng, từ chõng cưỡi ngựa, từ ngựa lên voi, từ tối vào sáng cũng như thế."

          - Những người "từ sáng vào tối" là những người hiện tại hưởng nhiều phước báo. Được sanh trong gia tộc giàu sang, nổi tiếng, nhiều tiền lắm của, ăn trên ngồi trước, có đầy tớ hầu hạ. Họ là những người được thọ hưởng vóc dáng mỹ miều, tướng tá sang trọng, đẹp đẽ, thanh lịch, thông minh xuất chúng. Họ là những người sanh ra "từ sáng". Được hưởng thụ sự sung sướng, người này không lo vun bồi thêm phước đức mà chỉ biết sống trong dục lạc, ỷ thế đánh người, ỷ giàu ăn hiếp kẻ cô thế. Trong đầu luôn suy nghĩ những điều xấu xa lợi mình hại người. Khi thân hoại mạng chung những hạng người này sanh vào cõi ác, đoạ xuống địa ngục, là chỗ tăm tối, nên nói người này là hạng người "từ sáng vào tối". Trong kinh ghi: "Ví như có người từ lầu cao xuống cưỡi voi, từ voi xuống lưng ngựa, từ ngựa xuống xe, từ xe xuống chõng, từ chõng xuống đất, từ đất rơi xuống hầm, từ sáng vào tối cũng như thế."

          - Hạng người "từ sáng vào sáng" là những người đời trước sống thiện lương, đời này hưởng nhiều phước báo, sống trong an lạc hạnh phúc, tức là được sanh vào chỗ sáng. Ở chỗ này, họ vẫn không quên tu thân tích đức, sống đời thiện lương, giữ gìn năm giới không sát sanh hại vật, không trộm cướp giết người, không tà dâm phá hoại gia cang người khác, không vọng ngữ nói lời khó nghe gây tổn thương những người xung quanh. Không say sưa rượu chè cờ bạc. Do những nhân duyên thiện lành này, khi thân hoại mạng chung họ sẽ được sanh vễ cõi lành được hoá sanh cõi Trời tiếp tục hưởng phước. Trong kinh ghi rằng: "Ví như có người từ lầu đẹp đến lầu đẹp, như thế cho đến từ chõng đến chõng, người từ sáng vào sáng cũng như thế"

         

III. CHÚNG TA THUỘC LOẠI NGƯỜI NÀO?

          Con người sanh ra ở đời sướng hay khổ đều do Nghiệp của người đó tạo ra từ đời này hay nhiều đời trước. Vào đời hiện tại này, đủ duyên thì Nghiệp trổ Quả. Quả xấu bởi do chúng ta thiếu phước. Nếu hiểu luật Nhân Quả thì chúng ta phải tự sám hối những lỗi lầm, dù chúng ta không còn nhớ chúng ta đã làm gì trong đời quá khứ. Nhưng chúng ta phải hiểu là không có cái gì tự nó sanh ra, mà là do chúng ta đã tạo nên. Chúng ta làm ác hại người thì bây giờ chúng ta phải chịu cảnh khổ.

          Nếu chúng ta biết chuyển nghiệp dữ thành nghiệp lành thì ngay khi đó chúng ta cảm thấy hết đau khổ. Đó là chúng ta từ tối vào sáng. Nếu chúng ta vẫn tiếp tục gây hoang mang khổ sở cho mọi người thì chúng ta cũng cứ lẫn quẩn trong bóng tối nghĩa là từ tối vào tối.

          Nếu đời này chúng ta sống trong an lạc hạnh phúc đó là do duyên chúng ta đã tạo nhiều điều thiện lành ở đời trước nên đời này hưởng nhiều phước báo. Hãy tiếp tục sống đời đạo đức, huân tu nghiệp lành, tránh xa nghiệp ác, tinh tấn tu hành để thanh lọc tâm trí, dẹp tan tham sân si, lậu hoặc, tập khí, tuỳ miên... phát nguyện tu hành như thế trong nhiều đời nhiều kiếp sẽ có ngày đạt quả vị giải thoát. Đó là sáng vào sáng. Còn nếu đời này được hưởng phước báo do nhân tốt của đời trước mà chỉ biết lặn ngụp hưởng thụ dục lạc, gây tạo ác nghiệp chắc chắn chúng ta sẽ tự gặt lấy quả khổ đau. Đó là sáng vào tối.

 

IV. KẾT LUẬN

          Trên con đường tu học Phật. Chúng ta phải tự mình tìm hiểu chính bản thân của mình. Xem mình đang ở vị trí nào trong bốn hạng người mà Đức Phật đã nêu trên. Dù chúng ta thuộc hạng người nào thì bây giờ cũng chưa muộn. Chúng ta bắt đầu tự sửa chữa bản thân của mình. Nếu nhận thấy mình sanh ra "từ tối" thì mình sám hối và tu tập một cách rốt ráo để ba nghiệp được thanh tịnh. Nhưng nếu mình sanh ra "từ sáng" thì mình cũng đừng quá chủ quan cho rằng mình chưa bao giờ phạm lỗi. Bởi biết đâu những lỗi mình phạm từ đời trước, hay nhiều đời trước nữa chưa đủ duyên để trổ quả.

          Tu hành theo đạo Phật có nhiều pháp tu như: Quán, Chỉ, Định, Huệ. Pháp nào cũng đưa chúng ta đến chỗ thanh tịnh nội tâm. Nội tâm thanh tịnh không ô nhiễm tức Ý thanh tịnh sẽ đưa đến lời nói và hành động thanh tịnh giúp chúng ta ngăn ngừa tạo nghiệp xấu. Đó là Tu Tâm. Trong đời sống hằng ngày chúng ta cũng cần tu thêm Phước nghĩa là chúng ta giữ giới hạnh, làm những việc có lợi ích cho quần sanh trên nhiều phương diện tuỳ theo khả năng của chúng ta như bố thí công sức tiền bạc, giúp đỡ người hoạn nạn v.v... Được như thế thì cho dù đời này chúng ta không phải là một tuyệt sắc giai nhân hay một mỹ nam hấp dẫn, dù chúng ta không giàu tiền, giàu bạc, không nổi danh trong thiên hạ, nhưng tâm chúng ta cảm thấy an lạc hạnh phúc thì đó là chúng ta đang hưởng phước báo rồi còn gì?



THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

19-7-2018

         

         

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4545)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7370)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4779)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4889)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5336)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10306)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9067)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6219)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8822)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5004)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]