Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh Niệm Tỉnh Giác

20/07/201821:04(Xem: 6660)
Chánh Niệm Tỉnh Giác
Chánh Niệm Tỉnh Giác

(Từ Mindfulness đến Awareness)

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

 Hình sư cô Hằng Như 7-2018

          Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai. Chính vì thế nên đầu óc con người không lúc nào trụ yên một chỗ để nghỉ ngơi, mà luôn tích cực hoạt động để thực hiện những điều mới lạ nhằm phục vụ cho bản thân mình, hoặc phục vụ cho tha nhân. Tuy nhiên đã là con người thì không ai tránh khỏi lòng tham và ích kỷ. Do đó, mỗi người một cách, tuỳ theo khả năng hoàn cảnh của mình mà lăn xả vào cuộc đời, nhắm mắt nhắm mũi gia tăng tốc lực chạy về phía trước. Họ tranh thủ thời gian, vận dụng toàn bộ sức khoẻ lẫn tinh thần để phấn đấu, tranh danh đoạt lợi và sẳn sàng trừ khử lẫn nhau trên thương trường, bất chấp những mưu mô xảo trá.

          Đó là chưa kể đến môi trường sống ngày thêm tồi tệ vì độc khí thải ra từ các công xưởng kỹ nghệ ảnh hưởng nặng nề đến sức khoẻ của con người. Do đó thể chất lẫn tinh thần của con người bị căng thẳng và khủng hoảng tột cùng, đồng thời những căn bệnh thời đại bắt đầu xuất hiện, và sự xuất hiện này, ngày một nhiều hơn tác động thẳng đến con người khiến họ vô cùng đau đớn và khổ sở. Đó là những căn bệnh tâm thể phát xuất do tâm rối loạn gây nên như nhức đầu, hồi hộp, khó thở, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy nhược thần kinh, mặc cảm, bứt rứt, lo âu, sợ hãi, trầm cảm, alzheimer, mất ký ức, hoang tưởng và những biến chứng nguy hại về mặt tâm thần khiến người ta chán sống đi tìm cái chết ..v.v...

          Trong số hằng triệu người lặn ngụp trong cơn khủng hoảng khiếp đảm đó, có nhiều người đã thức tỉnh, kịp nhận ra sự mất cân bằng trầm trọng nơi bản thân,  nên quay về chăm sóc đời sống tinh thần và tâm linh của mình bằng cách "học thiền".

          Thiền là gì? Thiền thật ra không có gì cao siêu huyền bí, mà Thiền chỉ là một chân lý sống của con người tỉnh thức. Họ cũng sống như bao người khác, nhưng không phải sống bằng sự chạy đua với vật chất bên ngoài, mà sống với cái tâm bình thản thư giãn không dính mắc không phiền muộn và dĩ nhiên là không mệt mỏi, khổ đau. Họ sống bằng cách nào? Họ cũng ăn, cũng uống, cũng ngủ nghỉ, cũng làm việc như bao nhiêu người khác, nhưng việc nào ra việc đó. Tâm họ không bị quấy rối bởi việc nọ xọ vào việc kia. Sự hiểu biết và suy tư có trật tự đó, trong đạo Phật gọi là "Chánh Niệm".  Chánh Niệm được xem như là cội nguồn, là gốc rễ để Tâm được an tịnh. Khi tâm an thì thân khoẻ và trí tuệ sáng suốt hơn.

 

CHÁNH NIỆM LÀ GÌ ?

          Chánh niệm tiếng Pàli là "Samasati" (P) hay tiếng Sanskrit gọi là "Samyaksmrti" (Skt), có nghĩa là sự nhận biết đúng, tương đương với tiếng Anh là Correct Thinking, Right Mindfulness or Right Awareness. Trong Phật giáo từ "Sati" có nhiều ý nghĩa, nội dung khác nhau tuỳ theo cách xử dụng tương ứng với tiếng Việt. Thí dụ như: Suy nghĩ (điều gì đó trong đầu). Sự ngẫm nghĩ, Sự chú ý, Sự chú tâm (Mindfulness về một đối tượng nào đó). Sự nhận biết (Awareness rõ ràng về điều gì). Tưởng nhớ (đến điều tốt lành) hay Chối bỏ (những điều xấu xa). Chánh Niệm còn có nghĩa là lúc nào cũng "Tỉnh Giác".

          Chánh Niệm không có nghĩa là chọn lựa (do sự vận dụng của trí óc) và giữ lấy ý niệm thiện lành vừa khởi lên hoặc xua đuổi ý niệm xấu ác trong Tâm, mà Chánh Niệm có nghĩa là biết rõ ràng điều gì qua giác quan một cách vô tư không phê phán. Nói cách khác Chánh Niệm là sự tỉnh giác không quên điều đang xảy ra, biết rõ (tuệ tri) các pháp (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) một cách trọn vẹn tức là biết rõ những gì đang có mặt trước giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) ngay trong thời khắc "bây giờ và ở đây", một cách khách quan tuyệt đối.

          Theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ, Chánh Niệm là sự nhận biết của Tâm (the awareness of the mind). Đây là trạng thái Tâm hoàn toàn yên lặng mà vẫn biết rõ ràng và đầy đủ về một pháp nào đó (đối tượng) đang xảy ra trong thân hay ngoài thân.

          Chánh Niệm là pháp được Đức Phật dạy đệ tử áp dụng trong 4 oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, trong bất cứ trường hợp nào như khi ăn uống, khi mặc áo, khi máng áo, khi đi, khi ngồi, khi quay đầu nhìn hay ngay cả khi đại tiểu tiện v.v... Chánh Niệm vững chắc tạo ra năng lượng giúp Tâm nhận diện rõ ràng những gì đang xảy ra cho chính ta và những người xung quanh. Người ta nói Tâm quay về với Thân hay Thân Tâm cùng có mặt khi chúng ta có Chánh Niệm. Nếu Thân một nơi, Tâm một ngã, đó là chúng ta đã bị Thất Niệm.

 

CHÁNH NIỆM (RIGHT MINDFULNESS)

THEO NGHĨA THÔNG THƯỜNG TRONG THẾ GIAN

          Thông thường từ "Sati" được dịch sang tiếng Anh là "Mindfulness" nghĩa là "sự chú tâm, chú ý, tập trung vào một đối tượng" hay "gom tâm vào một đối tượng" để Tâm được yên lặng. Khi Tâm bận chú ý đến một đối tượng thì không thể suy nghĩ lan man hay mơ mộng đến những điều gì khác.

          Thí dụ : Khi làm bất cứ việc gì bằng tay chân như tụng kinh, gõ mõ, lần tràng hạt, niệm Phật, may vá, lặt rau, rửa chén, lái xe, làm vườn, giải phẫu, nhổ răng, sửa sắc đẹp, làm móng tay, gỏ computer, làm đồ nữ trang, vẽ tranh ảnh, quan sát hay theo dõi đối tượng, ngay cả việc hành nghề đạo chích (trộm cắp đồ đạc của người khác ) v.v... Khi thực hiện một trong các công việc nêu trên, chúng ta phải chú tâm và chú ý vào những gì liên hệ đến công việc. Nếu không, thì chúng ta khó đạt mục tiêu nhắm đến lúc ban đầu, sẽ thất bại hoặc có thể xảy ra tai nạn vì bất cẩn không chú ý.

          Như vậy tác dụng của "sự chú tâm chú ý" này, trước hết giúp chúng ta có khả năng ngăn chận sự xao lãng, lo ra, hoặc hạn chế sự phóng tâm hay suy nghĩ linh tinh vào những việc khác. Trên thực tế làm việc gì mà chúng ta không toàn tâm toàn ý, nghĩa là Tâm không trụ vào đối tượng hay công việc sẽ đưa đến thất bại và dễ gây tai nạn.

          Do đó, bằng Chánh Niệm với sự chú tâm và chú ý (Right Mindfulness), Chánh Niệm này không phải là phương tiện dành cho người thực hành Thiền để đạt được Tâm an tịnh, vì với Chánh Niệm này Tâm vẫn đang ở trong trạng thái nhị nguyên, vẫn có chủ thể là Ý Căn, Ý Thức, Trí Năng. Tâm tự nó luôn luôn có đối tượng, đối tượng đó có khi chỉ là đang niệm Phật trong Tâm, hay dính mắc với niệm rửa chén, niệm quét nhà hay niệm thiền hành. Toàn bộ những niệm này là niệm Biết có lời (verbal knowledge).

          Tuy nhiên, nếu muốn hạn chế Tâm lo ra để dễ tập trung tâm ý vào một việc, thì phương pháp này có hiệu quả tốt nhất.

 

CHÁNH NIỆM (RIGHT AWARENESS )

THEO NGHĨA TRONG BÁT CHÁNH ĐẠO

          Chánh Niệm là chi thứ bảy trong tám chi của Bát Chánh Đạo (Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định). Chánh Niệm ở đây có nghĩa là "nhận biết không lời" (wordless awareness) về đối tượng một cách rõ ràng đầy đủ mà không có tự ngã hiện diện (để suy nghĩ, phân tích hay so sánh hoặc mong cầu điều gì), Biết không lời là đặc tính của Chánh Niệm cũng là đặc tính của Tánh Giác.

          Vì thế, khi xuất hiện trong Bát Chánh Đạo, "sati" có nghĩa là "nhận biết" (awareness). Đây là sự nhận biết đối tượng ngay tức khắc mà Vọng Tâm không có mặt. Nó không giống như trạng thái tâm chú ý, tập trung (Mindfulness). Khi tập trung thì Vọng Tâm có mặt. Vọng Tâm có mặt là có xung đột, Tâm không bao giờ yên lặng nên không thể đi đến Chánh Định được.

 

                                      CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

TRONG BỐN TẦNG THIỀN CỦA ĐỨC PHẬT

          Nghiên cứu "Tiến Trình Tu Chứng Và Thành Đạo của Đức Phật" chúng ta biết rằng "Chánh Niệm Tỉnh Giác" là kết quả của tầng Thiền thứ ba trong bốn tầng Thiền, đó là: Sơ Thiền, Đức Phật kinh nghiệm "Định Có Tầm Có Tứ". Nhị thiền đạt "Định không Tầm không Tứ". Tam thiền Ly Hỷ Trú Xả đạt "Chánh Niệm Tỉnh Giác", Tứ thiền đạt "Định Bất Động" chứng ngộ tuệ giác về ba minh.

          Ở mức độ "Chánh Niệm Tỉnh Giác" này chúng ta có thể hiểu rằng thiền giả đang an trú trong Tánh Giác, Tâm thiền giả hoàn toàn yên lặng, không dính mắc với bất cứ những gì xảy ra trong thân cũng như ngoài thân mặc dù thiền giả biết rõ ràng và chính xác những gì đang xảy ra. Có thể nói thiền giả hiện là nhân chứng giữa Tâm và cảnh lúc bấy giờ.

THỰC TẬP CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC

          Mục đích của Thiền là hành trì tu tập để thay đổi quán tính vọng động của Tâm thường gọi là Vọng Tâm, sang quán tính yên lặng sáng suốt với niệm biết không lời gọi là Chân Tâm. Khi Tâm hoàn toàn định tỉnh, yên lặng vững chắc mà vẫn có  nhận thức biết không lời thì gọi là Định hay Chánh Định. Chánh Định là chi thứ tám trong Bát Chánh Đạo tương đương với tầng Định thứ tư là tầng Định cao nhất trong bốn tầng Định mà Đức Phật đã trải nghiệm và thành đạo.

          Muốn thực tập Thiền Chánh Niệm, trước hết người tập phải xử dụng Trí Năng Tỉnh Ngộ để tu tập. Trí Năng Tỉnh Ngộ giữ vai trò chú ý, chú tâm vào một đối tượng hay một điểm nào đó để cột Tâm lại không cho Tâm tán loạn. Thí dụ như tu tập đề mục "Định Niệm Hít Vào Thở Ra" (Anapànasati Samàdhi). Ban đầu hành giả chú tâm chú ý nói ra lời "Tôi biết tôi hít vào." "Tôi biết tôi thở ra" khi hít vào thở ra. Đây là đơn niệm Biết có lời, nghĩa là câu nói chỉ một nội dung duy nhất là biết mình đang hít vào thở ra mà thôi. Kết quả Tâm được yên lặng, có Định nhưng không vững chắc, thuật ngữ gọi đây là trạng thái của Thiền Chỉ (Samatha Bhavanà). Giai đoạn này là giai đoạn Tầm (Vitakka/sự nói thầm trong đầu) tắt Tứ (Vicàra/đối thoại thầm lặng hay lầm bầm trong đầu không ngừng). Tức lời nói do hành giả tự động nói ra sẽ tắt đi những vọng tưởng nói thầm qua lại từ trong ký ức khởi lên.

          Bước kế tiếp là giữ Chánh Niệm về hơi thở vào ra bằng cách thầm nhận biết không lời về hơi thở vào ra đó. Hơi thở dài biết dài, hơi thở ngắn biết ngắn, hơi thở nặng nề khó chịu biết hơi thở nặng nề khó chịu. Kết quả ngôn hành (Tầm Tứ) yên lặng, hành giả kinh nghiệm Định Không Tầm Không Tứ.

          Bước thứ ba Nhận Biết Không Lời rõ ràng đầy đủ về những gì đang xảy ra trên thân, trong thân (thân, thọ, tâm, pháp) hay những gì xảy ra xung quanh (ngoại thân) trong hiện tại bây giờ và ở đây, mà Tâm hoàn toàn yên lặng không dính mắc.Tầng định này gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Từ Chánh Niệm sẽ đưa đến Chánh Định.

           

 

 

KẾT LUẬN

          Thiền không phải chỉ dành cho các vị xuất gia tu tập để đạt giác ngộ giải thoát, mà Thiền còn dành cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, quốc gia để có được đời sống hiện tại an vui hạnh phúc. Chìa khoá để đạt sự an lạc này là Chánh Niệm, cho nên chúng ta phải tập sống trong Chánh Niệm. Nói theo thuật ngữ nhà Phật là an trú trong Chánh Niệm. Chánh Niệm đi đôi với Tỉnh Thức. Vắng Tỉnh Thức chúng ta dễ dàng mất Chánh Niệm gọi là Thất Niệm. Khi Thất Niệm thì Tâm sẽ tán loạn mất năng lượng vì định lực không có, khiến Tâm ta yếu đuối dễ xúc cảm, dễ rơi vào trạng thái phiền não khổ đau.

          Thực tập sống trong Chánh Niệm khó, nếu chúng ta không có mục tiêu tức hướng tới, cũng như không có sự cương quyết, kiên nhẫn và pháp hành. Nếu chúng ta có đầy đủ những sự kiện trên thì chúng ta sẽ kinh nghiệm sự an vui hạnh phúc không mấy khó khăn. Thực tập Thiền không phải chỉ ngồi yên một chỗ tư duy quán chiếu về một đề mục, mà chúng ta còn cần phải thực tập trong bốn oai nghi tức là những hoạt động trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thực tập qua giác quan mắt thấy, tai nghe, lưỡi, mũi, thân xúc chạm.

          Chẳng hạn như nhìn thấy vật gì, chúng ta nhìn vật ấy bằng cái nhìn khách quan không để Ý Thức phân biệt khen chê so sánh. Đó là chúng ta đang tập sống trong Chánh Niệm.

          Tới giờ ăn cơm, chúng ta cho cơm cùng với thức ăn vào miệng, khi nhai thức ăn, chúng ta đặt niệm biết của chúng ta vào việc nhai cơm và thức ăn, chúng ta biết mùi vị của thức ăn như thế nào, chúng ta thưởng thức nó nhưng không có một ý nghĩ nào khác ngoài niệm biết chúng ta đang ăn. Đó là chúng ta đang ăn cơm trong Chánh Niệm.

          Khi bước lên cầu thang chúng ta đặt niệm biết trên từng bước chân. Khi bước lên mỗi bậc thang, chúng ta cảm nhận chân của chúng ta như thế nào, khi đặt bàn chân xuống chân của chúng ta ra sao? Chúng ta cảm nhận sự xúc chạm của bàn chân. Đó là chúng ta đang bước đi trong Chánh Niệm.

          Khi vào buồng tắm đưa tay vặn vòi sen, chúng ta biết chúng ta đang làm động tác mở vòi sen. Đó là chúng ta vặn vòi sen trong Chánh Niệm.

          Khi vòi sen toả những tia nước xuống thân thể. Chúng ta biết nhiệt độ nước quá lạnh, chúng ta điều chỉnh sang độ nước ấm. Khi nhiệt độ nước thích hợp với cơ thể, chúng ta biết nhiệt độ vừa phải thích hợp với nhiệt độ cơ thể của chúng ta. Chúng ta kỳ cọ trên thân đến đâu, chúng ta biết. Đó là chúng ta tắm trong Chánh Niệm.

          Thời gian thực tập ban đầu, có thể chúng ta dễ bị Thất Niệm. Khi phát giác ra chúng ta đang Thất Niệm có nghĩa là chúng ta đã Tỉnh Thức. Tỉnh Thức nhận ra chúng ta đang không có Chánh Niệm.

          Chánh Niệm có công năng tiêu trừ sự dính mắc nên những áp đặt hay trói buộc của Kiết Sử truyền thống trong gia đình, sở làm, xã hội không ảnh hưởng đến Tâm. Những giây phút sống trong Chánh Niệm là những giây phút mà Tâm chúng ta thanh thản, nhẹ nhàng và bình yên. Tín hiệu yên bình này tác động vào hệ thống thần kinh Đối Giao Cảm tiết ra những chất sinh hoá học có lợi cho cơ thể giúp hài hoà Thân Tâm của chúng ta. Thân Tâm chúng ta được hài hoà thì Thân khoẻ Tâm an. Thân khoẻ Tâm an, thì chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Năng lượng khoẻ khoắn hạnh phúc này tạo ra năng lượng từ bi thúc giục chúng ta thương yêu và giúp đỡ người khác để họ cũng được sống trong an vui hạnh phúc như chúng ta.

          Tất cả những kết quả tốt đẹp đó đến với đời sống của chúng ta có phải là do chúng ta đã tinh tấn tu tập và sống trong Chánh Niệm Tỉnh Thức hay không? Câu hỏi được đặt ra đã có sẵn câu trả lời. Câu trả lời giúp chúng ta hiểu tại sao sống trong thế giới văn minh kỹ thuật tiến bộ vượt bực, có đầy đủ tiện nghi, mà trên thế giới này vẫn có rất nhiều người không màn hưởng thụ vật chất, lại quay về với đời sống tâm linh của họ bằng cách "học thiền". Chính nhờ "học thiền", biết cách sống trong Chánh Niệm mà con người mới thật sự được an lạc hạnh phúc, mới điều chỉnh được mọi nhiễu nhương phiền não mang tới từ đời sống. Thật quý hoá thay!

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

15/7/2018

Tài liệu:

Dựa theo giáo trình giảng dạy của HT Thích Thông Triệt trong các lớp Bát Nhã cao cấp tại các đạo tràng Thiền Tánh Không.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/12/2020(Xem: 6840)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5689)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
28/12/2020(Xem: 5197)
Moscow: Thuật ngữ “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” mô tả một dạng thiền cao cấp trong truyền thống Kim Cương thừa, thường được thực hành bởi các tu sĩ Phật giáo trong trạng thái quá độ sang sự chết, được gọi là trung hữu – bardo (chìa khóa để giải mã những Bí mật của Nghệ thuật sinh tử). Trạng thái nhập thiền định Phật giáo Mật tông hiếm có được gọi là “Tukdam, ཐུགས་ དམ་” đã được các nhà khoa học phương Tây nghiên cứu Và Tìm hiểu trong nhiều năm, với sự lãnh đạo của Tiến sĩ ngành tâm lý và tâm thần học - Richard Davidson thuộc Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ), người sáng lập và Chủ tịch Trung tâm Tâm Trí Lực (Center for Healthy Minds).
28/12/2020(Xem: 5302)
Phật giáo đồ các quốc gia Đông Á, thường Kỷ niệm ngày Đức Phật Nhập Niết bàn vào tháng 2 Âm lịch. Nhưng tại địa phương tôi, Trung tâm Thiền miền Bắc Carolina (the North Carolina Zen Center) lại tổ chức Kỷ niệm ngày Đức Phật Thành đạo vào tháng 12 Âm lịch, với một buổi chia sẻ Pháp thoại với Thanh thiếu niên Phật tử, một buổi lễ thắp nến lung linh, tỏa sáng ánh đạo vàng từ bi, trí tuệ, và một bữa ăn tối sau lễ Kỷ niệm.
24/12/2020(Xem: 5873)
Đức Đạt Lai Lạt Ma và nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu, thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg sẽ hội thảo cùng với các nhà khoa học hàng đầu vào ngày 9 tháng 1 tới, về mối quan tâm ngày càng tăng, đối với phản ứng các bên về “khủng hoảng khí hậu: những biến đổi do con người gây ra trong môi trường làm tăng tốc độ nóng lên toàn cầu”. Cuộc thảo luận sẽ được tổ chức bởi Viện Tâm trí và Đời sống (Mind and Life Institute), rút ra từ cuốn sách mới nhất của Đức Đạt Lai Lạt Ma, Chủ nghĩa hoạt động của nàng thiếu nữ (17 tuổi) Greta Thunberg, nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển về biến đổi khí hậu và một loạt phim giáo dục mới về biến đổi khí hậu.
24/12/2020(Xem: 5053)
Trung tâm Phật giáo Somapura (Somapura Mahavihara, সোমপুর মহাবিহার, Shompur Môhabihar) được kiến tạo vào thế kỷ thứ 8, tọa lạc tại Paharpur, Badalgachhi Upazila, Naogaon, Tây Bắc Bangladesh, một ngôi Già lam Cổ tự lớn thứ hai phía Nam dãy Hymalaya, một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất Nam Á, thành tựu nghệ thuật độc đáo, ảnh hưởng đến nhiều trung tâm Phật giáo lớn khác trên thế giới.
24/12/2020(Xem: 4473)
Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp, triều đại của Ngài đã đánh dấu thời đại Phật giáo Mông Cổ Cực thịnh, Ngài là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn và là lãnh tụ của bộ tộc Tümed của Mông Cổ. Vào giữa thế kỷ 16, năm 1578 Ngài bệ kiến Sonam Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 3 và ban cho Ngài tước hiệu “Đại Dương”, “ám chỉ Hoàng đế Phật tử ltan Khan, vị Đại hộ pháp Trí tuệ Siêu phàm như Biển” Tước hiệu Đạt Lai Lạt Ma cũng được ban cho hai vị Giáo chủ tiền nhiệm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 3, và tước hiệu này trở thành thông dụng cho tất cả những người kế nhiệm Đức Đạt Lai Lạt Ma Sonam Gyatso về sau này.
21/12/2020(Xem: 7661)
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết.
20/12/2020(Xem: 6310)
Trong một thời khắc lịch sử, cả nước đã chứng kiến sự hội tụ của quá khứ, hiện tại và tương lai khi ba thế hệ của triều đại Wangchuck, Vương quốc Phật giáo Buhtan đến viếng thăm khu đất của Pungthang Dewachhenpoi Phodrang vào ngày hôm 16 vừa qua. Lễ Kỷ niệm 113 năm Quốc khánh Vương quốc Bhutan, được tổ chức bên trong Punakha Dzong “Cung điện Hạnh Phúc”, từng là nơi ngự của Lama Zhabdrung Ngawang Namgyel đáng tôn kính hơn 400 năm trước, người đã có công thống nhất Bhutan và làm nền tảng để đất nước này phát triển an bình, thịnh vượng cho đến ngày nay.
20/12/2020(Xem: 5697)
Matxcơva, ngày 15 tháng 12: Hội nghị Bàn tròn trực tuyến với chủ đề “Đối thoại các Tôn giáo trong Thế giới hiện đại, Dialogue of Religions in Modern World“ do Học viện Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao Liên bang Nga, Viện Nghiên cứu Học thuật về Cơ đốc giáo phương Đông (INaSEC) đồng tổ chức tại Khoa Tôn giáo và Thần học (FRT) thuộc Đại học Vrije Amsterdam và Đại học Chính thống Cơ đốc giáo, Nga nhân danh Thánh John Divine.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]