Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cực Lạc Hiện Tiền

16/07/201817:49(Xem: 6222)
Cực Lạc Hiện Tiền

CỰC LẠC HIỆN TIỀN

 

 

Hành giả tu pháp môn Tịnh Độ đều biết có bốn pháp niệm Phật tiêu biểu là: Thực Tướng Niệm Phật, Quán Tưởng Niệm Phật, Quán Tượng Niệm Phật và Trì Danh Niệm Phật. Trong bốn pháp quán này, Trì Danh Niệm Phật thường được số đông hành giả chọn để hành trì vì phương thức tương đối đơn giản hơn. Đây cũng chỉ là quan điểm của đại chúng. Phật thuyết nhất âm, chúng sanh tùy loài giải. Pháp như thế, Phật chỉ dạy như thế, chúng sanh tùy căn cơ mà hành, mà giải.

Tôn chỉ của pháp môn Tịnh Độ căn cứ trên Kinh A Di Đà mà dựng lập, với ba yếu tố căn bản là tín, nguyện, hạnh. Tín phải tin sâu, nguyện phải nguyện thiết và hạnh phải chuyên cần, phải niệm chân thật bằng cả thân, khẩu, ý mới cơ cảm được cùng tâm Phật.

Kinh A Di Đà được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên giảng dưới hình thức vô vấn tự thuyết, nghĩa là không chờ ai hỏi, nhưng vì lợi lạc chúng sanh và cũng do hoàn cảnh đặc biệt mà Ngài tuyên thuyết. Trong Môn Kinh Bộ, Kinh Duy Ma, phẩm Phật Quốc, vào thời đó, khi Đức Thế Tôn du thuyết tại thành Xá Vệ thì vua Ba Tư Nặc vì quá yêu kính Đức Phật và tăng đoàn nên đã ban một đạo luật, nội dung:“Là người xuất gia thì dù phạm tội gì cũng không bị trừng phạt”. Do vậy mà nhiều thành phần bất lương đã len lỏi vào tăng đoàn để lợi dụng làm nhiều điều bất thiện khiến đã xuất hiện tới sáu nhóm ác tăng mà dân chúng gọi là “Lục quần tỳ kheo”. Những vị chân tu không thể chung sống trong môi trường bất tịnh đó nên đã xin Đức Phật cho phép dời đi nơi khác.

Đức Phật bèn khuyến tấn họ nên nhiếp tâm tu thì dù hoàn cảnh xung quanh thế nào cũng sẽ chiêu cảm được tâm Phật để đạt an lạc, không chỉ cho bản thân mà còn chuyển hóa được môi trường xung quanh. Và ngài Xá Lợi Phất được gọi tới, như người đại diện, trực tiếp nghe Đức Thế Tôn thuyết giảng và giới thiệu Thế Giới Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, như sự khẳng định, sự hứa khả với những ai có tín tâm bất hoại sẽ được sanh về cõi nước đó.

Lời khai thị của Ấn Quang Đại Sư với hành giả tu pháp môn Tịnh Độ là đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật hiệu, không để gián đoạn.

Đại lão Hòa Thượng Hư Vân cũng thường xuyên nhắc nhở người chuyên tu niệm Phật phải giữ câu niệm Phật như dòng nước, cứ rỉ rả, liên tục chảy hoài,mới mong đạt tới nhất tâm bất loạn.

Muốn được như vậy, không phải chỉ niệm hời hợt, lơ là, mà trước hết, hành giả phải có tự lực, nghĩa là phải quyết tâm tin sâu nguyện thiết chấp trì hồng danh Đức Phật A Di Đà, chiêu cảm được tâm Phật,mới có tha lực của Phật gia hộ để hành trình về Tây Phương Cực Lạc trọn phần tốt đẹp.

 

Nhưng trên thực tế, hành giả đơn phương tự lực niệm Phật có thể không dễ, bởi những sinh hoạt đời thường luôn có muôn hình vạn trạng gây não phiền, xáo trộn tâm tư. Cũng không thể nghĩ cạn cợt về câu “Duy tâm tịnh độ”, là tâm tịnh thì thế giới tịnh, mà quên điều quan trọng là tâm chưa tịnh thì phải làm sao chuyển hóa cho tâm tịnh, mới có thể tiến tới bước kế tiếp là thế giới tịnh.

Thế nên, hành giả cần trợ duyên là những ngoại cảnh thanh tịnh và những minh sư, những thiện tri thức chỉ dẫn và đồng hành. Đó có thể là những đạo tràng chuyên tu niệm Phật, do nhân duyên mà hình thành để đáp ứng nhu cầu cho hành giả pháp môn Tịnh Độ. Ở đó, đại chúng nương năng lượng tự lực của nhau để cùng chạm tới được tha lực của Đức Phật A Di Đà.

Mỗi đạo tràng niệm Phật đều tùy căn cơ đại chúng mà có những phương thức riêng cho phù hợp, hầu đạt kết quả tốt. Phương thức nào cũng không đi ra ngoài hai công hạnh là Chánh Hạnh và Trợ Hạnh. Chánh Hạnh là chuyên tâm chấp trì danh hiệu Phật và Trợ Hạnh là vẫn tiếp tục những công việc, phận sự khác, nhưng phải ở trong nội dung tốt lành, hướng thiện, để trợ duyên cho con đường tu tập Chánh Hạnh, bởi vì chúng ta cũng khó mà buông bỏ bổn phận và trách nhiệm với gia đình, với xã hội.


Cuc Lac Hien Tien_TN Hue Tran (4)Cuc Lac Hien Tien_TN Hue Tran (3)Cuc Lac Hien Tien_TN Hue Tran (2)Cuc Lac Hien Tien_TN Hue Tran (1)

 

Do lời yêu cầu khẩn thiết của một số liên hữu chuyên tu niệm Phật, Trang Nghiêm Tịnh Độ Đạo Tràng tỉnh Perris, miền Nam California Hoa Kỳ,đã mở ra cơ hội để mọi người cùng kiểm điểm năng lượng tự lực của mình, sao cho “dòng nước cứ rỉ rả chảy hoài không dứt” trong ít nhất liên tục 24 giờ đồng hồ.

 

Phàm không đi thì không tới. Nếu có đi thì dù nhanh hay chậm, suông sẻ hay vấp váp cũng mới hy vọng sẽ có lúc tới.

Và đoàn hành giả 47 liên hữu đầu tiên cùng cất bước vào một cuối tuần, bắt đầu hành trì từ 2 giờ trưa Thứ Bảy tới 2 giờ trưa Chủ Nhật. Trong thời gian này, những ai tham dự phải buông hết mọi ngoại duyên, không chuyện trò, không điện thoại, không thăm viếng (cổng chính được khóa lại khi bắt đầu tu), không gì ngoài tiếng niệm Phật, niệm ra tiếng hoặc niệm thầm.

Để không gian Chánh Điện liên tục có người niệm Phật, đại chúng được chia thành 4 nhóm, với thời khóa như sau:

Thứ Bảy:

02:00 PM – 02:45 PM: Họp chúng – Sinh hoạt khóa tu

03:00 PM – 05:00 PM: Cộng tu

Đại chúng tụng kinh A Di Đà, niệm Phật, nghe khai thị

05:00 PM – 06:30 PM: Nhóm 1

06:30 PM – 08:00 PM: Nhóm 2

08:00 PM – 09:30PM: Nhóm 3

09:30 PM – 11:00 PM: Nhóm 4

11:00 PM – 12:30 AM: Nhóm 1

 

Chủ Nhật:

12:30 AM – 02:00 AM: Nhóm 2

02:00 AM – 03:30 AM: Nhóm 3

03:30 AM – 05:00 AM: Nhóm 4

05:00 AM – 07:00 AM: Cộng tu

Đại chúng tụng kinh A Di Đà, niệm Phật, nghe khai thị

07:00 AM – 08:30 AM: Nhóm 1

08:30 AM – 10:00 AM: Nhóm 2

10:00 AM – 11:30 AM: Nhóm 3

11:30 AM – 01:00 PM: Nhóm 4

01:00 PM – 03:00 PM: Cộng tu (Đại chúng niệm Phật chung)

03:00 PM: Đại hồi hướng.

 

Viên mãn khóa tu

 

Liên hữu về tham dự đã tự tìm nhau, thành lập nhóm với sự đồng thuận về phương thức niệm Phật. Nhóm thì cảm thấy an lạc khi liên tục thong thả niệm “A Di Đà Phật”, nhóm thì phân đôi, tiếp lời nhau, mỗi bên niệm 3 câu “A Đi Đà Phật”, có nhóm lại muốn giữ tâm chánh niệm, tỉnh giác, nên chọn phương thức “thập niệm ký số”. Nhóm này cũng chia đôi nhân số, mỗi bên niệm 10 tiếng, tiếp nối nhau, không đứt quãng.

Tưởng như vậy đã đủ để phải chú tâm vào tiếng niệm Phật, vậy mà có nhóm lại chọn cách khó hơn, là toàn nhóm niệm 9 câu, một người đại diện nhóm niệm lớn câu thứ 10. Thỉnh thoảng có ai lơ là, đủ 9 câu rồi, còn niệm tiếp là rớt ngay vào tiếng của người đại diện, hoặc ngược lại, người đại diện lơ là thì khi trong nhóm ngừng ở tiếng thứ 9, không gian bỗng rơi vào mấy giây im lắng!

Hình thức như thế, mà lạ thay, nhóm nào cũng đủ nhân số để hành trì và tất cả đều đồng thuận một nguyên tắc, là trong thời khắc của nhóm nào đang chịu trách nhiệm tại chánh điện, nếu người nhóm khác muốn có mặt trợ duyên thì cũng phải niệm theo phương thức của nhóm đang trách nhiệm.

Điều này hợp lý thôi.

Thực phẩm cho khóa tu được chuẩn bị những món đơn giản, và ban trai soạn thường dọn sẵn ngoài trai đường, có khăn che phủ sạch sẽ, an toàn. Tuy giờ thọ thực ấn định là 7 giờ sáng điểm tâm, 12 giờ trưa và 6 giờ chiều dùng cơm, nhưng vì là khóa tu niệm Phật liên tục nên ai cảm thấy đói lúc nào thì cứ xá 3 xá, thoải mái tự lấy thức ăn dùng lúc đó. Một bàn trà với bình nước lúc nào cũng đủ độ nóng để pha trà hay cà phê.

 

Với 4 nhóm liên tục tiếp sức nhau niệm Phật, khi một nhóm đang trách nhiệm thì ba nhóm kia làm gì?

Ôi, điều này mới kỳ diệu!

Không khi nào trong chánh điện chỉ có nhóm đang trách nhiệm, mà luôn luôn nhóm trước xong rồi, vẫn có người ngồi lại, nhóm sau hoặc nhóm kế tiếp sau, chưa tới phiên mà vẫn có người đã ra, nên chánh điện không chỉ có sự hiện diện của một nhóm, mà sĩ số lúc nào cũng đông đảo từ 2, tới 3 nhóm.

Điều này hiển lộ tự nhiên chứ không ai rủ ai, không ai gọi ai, mà có lẽ do chính tiếng niệm Phật tự tâm đã gọi, chính lời kinh thường đọc tụng “bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên đắc sanh Tịnh Độ” đã gọi.

 

Với không gian rộng hơn một mẫu, trong suốt khóa tu, nơi góc sân này, người quét lá lặng lẽ niệm Phật; cuối vườn kia, người nhổ cỏ, trồng hoa, lặng lẽ niệm Phật; hành lang trước, người kinh hành lặng lẽ niệm Phật; lối đi sau, người nhặt rác, lặng lẽ niệm Phật; trong bếp, người rửa rau, lặng lẽ niệm Phật, người vo gạo nấu cơm lặng lẽ niệm Phật …….. Bất ngờ giáp mặt nhau ở đâu thì cùng mỉm cười, chắp tay, và “A Di Đà Phật” …..

Toàn không gian là bức tranh linh động của sự tuyệt đối an lạc, thảnh thơi trong tiếng niệm Phật ……

 

Có phải đây cũng chính là những sinh hoạt đời thường, nhưng nếu hành giả tỉnh giác, chánh niệm thì những sinh hoạt đời thường này không những không chiếm mất thì giờ, không cản trở đường tu mà còn được chuyển hóa, trở thành giờ tu?

Có phải, khi đạt được điều này thì dường như bỗng nhiên chúng ta có thêm nhiều giờ tu, lúc nào cũng là thời khóa tu, bởi vì chúng ta đã giữ được câu niệm Phật ngân vang trong tâm, dù chúng ta đang ở đâu, đang làm gì. Có lẽ khi đó thì  “duy tâm tịnh độ” mới đúng nghĩa là “tâm tịnh, thế giới tịnh”.

Sống một ngày, an trú trong hạnh phúc an lạc của sự hành trì cũng là sống một ngày.

Sống một ngày trong phiền não khổ đau cũng là sống một ngày.

Vậy sao chúng ta không chọn ngày sống an lạc?

Giờ cao điểm là nửa đêm Thứ Bảy và rạng sáng Chủ Nhật của hai nhóm 1 và 2, tưởng là chỉ có nhóm phụ trách niệm Phật; vậy mà không những chánh điện đông đảo, ngoài sân còn có hành giả kinh hành dưới trăng khuya. Ngước nhìn trăng, hành giả đã phải chậm bước vì ánh trăng đêm rằm này dường như cực kỳ huyền ảo, cực kỳ nhẹ nhàng, cực kỳ thanh thoát. Trăng đang tỏa xuống không gian chỉ có người niệm Phật và tiếng niệm Phật nên trăng đã chiêu cảm mà cùng niệm Phật chăng?

Ôi, mầu nhiệm thay khi cảm xúc vỡ òa những lời từng nghe, từng đọc mà chưa đủ cơ duyên để liễu ngộ sâu sa:

“Tụng kinh giả, minh Phật chi lý

“Niệm Phật giả, minh Phật chi cảnh”.

Người tụng kinh rồi sẽ hiểu lời kinh

Người niệm Phật rồi sẽ thấy cảnh Phật.

 

Lại kỳ diệu nữa là trong khóa tu này đã vô tình hiển lộ một điều mà pháp môn Tịnh Độ thường bị nhìn qua thành kiến là pháp môn của những người già,  chỉ niệm Phật để mong lúc ra đi được Đức Phật và Chư Thánh Chúng tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc!

Trong khóa tu này, đại chúng về tu có ít nhất 3 thế hệ: ông bà, cha mẹ, con cái.

Ông bà, cha mẹ buông những thú vui đời thường trong 2 ngày cuối tuần và tuyệt đối tắt điện thoại 24 giờ thì dễ,chứ thanh niên thiếu nữ buông điều này, chắc không dễ, dù chỉ là 24 giờ, khi không hề có áp lực nào bắt họ buông cả!

Những người trẻ về tu đều hoàn toàn tự nguyện, và trong buổi pháp đàm ngắn, sau khi hoàn mãn, đại chúng của 3 thế hệ đều nhận ra rằng hành trì Trì Danh Niệm Phật, nghiêm túc và chân thật, cũng là đang hành trì Tam Vô Lậu Học,gồm Giới, Định, Tuệ chứ không phải chỉ là ngồi mơ màng niệm Phật suông như khúc gỗ!

Khi ý thức sự niệm Phật chân thật là đưa thân về với tâm thì trong khi miệng niệm hồng danh Đức Phật là hành giả đã đang giữ được Giới. Giữ giới trong sạch với tiếng niệm Phật gia hộ, làm sao mà tâm không Định. Giới và Định có rồi thì Tuệtất phát sanh, như trong toán học qua phương án “ắt có và đủ”.

Một hành giả trên 80 tuổi, thường có mặt trong cả 4 nhóm đã thân thương nhắc các bạn trẻ rằng “Khi nào mệt thì lên lầu nằm nghỉ, nhưng vẫn niệm Phật nhé!”

Lạ thay, khóa tu chỉ cần nhớ niệm Phật, ngoài ra, hoàn toàn thoải mái, đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì nghỉ. Nằm nghỉ mà vẫn niệm Phật thì dù cái thân tứ đại có đòi hỏi ta chợp mắt khoẳnh khắc nào thì khoẳnh khắc đó cũng có tiếng niệm Phật đi theo. Ăn ngủ là nhu cầu bình thường của thân tứ đại nhưng khi ta đã chủ động được những nhu cầu đó thì ăn chỉ là ăn để giữ thân, ngủ chỉ là nghỉ để giữ trí.Niệm Phật liên tục không ngủ, có lẽ là như vậy.

Những chia sẻ chân tình của đại chúng là những cảm nhận thật mới mẻ, thật sâu sắc, thật phấn khởi khiến trước khi chia tay, đại chúng đồng xin Thượng Tọa trụ trì mở khóa tu như vậy mỗi tháng một lần để đại chúng có cơ hội vun bồi năng lượng tự lực.

Nhìn ngắm một đại thụ cành lá xum xuê, xanh cao tươi mát thì dù không nhìn thấy bộ rễ, ai cũng biết chắc chắn rằng rễ đại thụ đó phải to, phải mạnh, phải bám sâu dưới lòng đất mới nuôi cây xanh tốt, mới giữ cây vững vàng trước bão giông.

Hành giả tu pháp môn Tịnh Độ, nếu quyết tâm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, cũng có thể đạt được điều đó. Nghĩa là phải làm sao để tiếng niệm Phật khắc sâu, bám rễ trong đất-tâm thì khi ra đi, bao nghiệp dư, bao oan kết kiếp này mới không xô ta ngã đổ được.

Huống chi, Đức Phật còn hứa khả, người niệm Phật chân thật thì dù đã sanh, đang sanh hay sẽ sanh đều được không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lời Chư Phật khuyến tấn trong kinh như thế, lẽ nào tự nhận là con của Phật mà chúng ta không tin rằng, quyết tâm và tinh tấn tu trì là chúng ta đang kiến tạo cho chính mình một cõi Cực Lạc Hiện Tiền, ngay hiện tại, ngay thế giới Ta-bà này và cũng đồng thời vun trồng đóa sen kỳ diệu trên Tây Phương Cực Lạc cho mai sau.

 

Trang Nghiêm Tịnh Độ Đạo Tràng tỉnh Perris,miền Nam California Hoa Kỳ, hẹn hội ngộ quý liên hữu vào hai ngày cuối tuần, mỗi cuối tháng.

Biết đâu, chúng ta bắt đầu với thời khóa 24/24 nhưng phương thức hành trì quá thoải mái, quá thong dong, chúng ta sẽ bước lên từng bậc, chẳng hạn 48/48 rồi 72/72 rồi tuần/tuần, tháng /tháng, năm/năm ……

Niệm trước không sanh là TÂM

Niệm sau chẳng diệt là PHẬT

Niệm niệm mà vô niệm

Thanh thanh mà vô thanh….

 

Liên hữu đã về tu được 3 lần và đều bất ngờ đạt kết quả tốt.

Nếu mô hình thử nghiệm này có đem lại chút lợi ích nào cho hành giả chuyên tu niệm Phật ở bất cứ nơi đâu, thì kẻ sơ lược tường thuật xin thành tâm hồi hướng:

 

Nguyện đem công đức này

Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường

Nếu có ai thấy nghe

Đều phát Bồ-đề-tâm

Hết một báo thân này

Đồng sanh về Cực Lạc.

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật.

Thích nữ Huệ Trân

(Tào Khê Tịnh Thất – Hạ chí, Mậu Tuất niên)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4537)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7359)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4769)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4881)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5320)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10296)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9048)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6112)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8812)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 4991)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]