Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Hạnh Của Sự Điềm Đạm

12/07/201822:24(Xem: 7473)
Đức Hạnh Của Sự Điềm Đạm
ĐỨC HẠNH CỦA SỰ ĐIỀM ĐẠM
Quang Minh
lotus-hoa-sen
Điềm đạm chính là đức hạnh của người có tấm lòng thiện lương và cũng là chìa khóa của chân hạnh phúc. Người điềm đạm là người làm chủ được mọi cảm xúc, tâm lý tiêu cực cũng như tích cực. Những điều tiêu cực là những điều mang tới sự phiền não khổ lụy, còn những điều tích cực là sự vui thích, say đắm, si mê về một điều gì đó của thực tại vô thường, từ đó làm mê mờ tâm trí, rối loạn thân tâm. Tâm chính là chủ của mọi tạo tác các nghiệp thiện ác, vậy để sống được với sự điềm đạm thì ta cần sống với tâm thanh tịnh, nhu hòa, hiền hậu trong sáng an nhiên. 
Cuộc sống có muôn hình vạn trạng, và cuộc đời là sự biến dịch của các pháp thông qua các hình tướng, trạng thái như là " thành - trụ - hoại - diệt", "có - còn - được - mất", "sinh - lão - bệnh - tử", "buồn - vui, khổ đau - hạnh phúc", "có - còn, được - mất"...Và nguyên nhân của sự đau khổ là do bám chấp vào các pháp vô thường, thay đổi mà cho đó là niềm vui cuộc sống, hạnh phúc truy tìm, mục đích hướng đến... mà không thấy được những gì đã là vô thường thì không thực mãi mãi, chỉ giả danh duyên hợp hư dối trong mộng huyễn bào ảnh của thế gian mà thôi. Những gì đeo đuổi, ước vọng, hướng tới đó cũng chỉ là giả tạm mà nếu đạt được thì cũng chỉ là vui trong thoáng chốc, mà không được thì đau buồn, phiền não. Đó chỉ là niềm vui giả tạm trong cái tâm sinh diệt bám chấp phân biệt mà thôi. Sự Điềm Đạm là đức hạnh mà có được chỉ khi ta nhận thức được lẽ vô thường, sống với chân tâm thanh tịnh. Và mọi cảm xúc tích cực hay tiêu cực hiện hữu trong tâm nhiều hay ít đó là biểu hiện cái tâm còn bị buộc ràng hay không, còn chấp nặng hay nhẹ mà thôi.
Điềm đạm là cảnh giới mà người sống điềm đạm là người đã làm chủ được mọi cảm xúc tiêu cực lẫn tích cực mà không bị nó ảnh hưởng tới thân tâm. Điềm Đạm với sự " thiểu dục, tri túc, biết đủ" trong cái tâm rộng lớn với nếp sống thanh cao trong sáng, của tâm hồn cao thượng.
Điềm là sự điềm tĩnh, bình lặng, yên bình, an nhiên khi mà tâm không còn bị ràng buộc nơi cảnh, cảnh không có thể chi phối được tâm trí cho dù thân có sống trong cảnh thuận hay cảnh nghịch thì tâm cũng không bị xao động. 
Đạm là bình dị trong cuộc sống, trong tâm hồn. Ít suy tư nghĩ suy, ít lo âu buồn phiền, ít tâm tư ảo não, ít mơ mộng hảo huyền...thì đó là sự bình dị trong tâm hồn. Để bình dị trong tâm hồn thì người hành đạo hãy "sống tùy duyên, tri túc, biết đủ, an nhiên đón nhận những thuận nghịch mà cuộc sống đem lại" vì " đời là vô thường nên không có gì là mãi mãi, không có gì là thật sự hiện hữu" cả về vật chất lẫn tinh thần mà tất cả chỉ là do duyên hợp mà thành, còn duyên sẽ có mà hết duyên sẽ mất. Trong dòng chảy của vô thường nếu người nào chấp trước, chấp thủ vào pháp nào thì dính mắc vào pháp đó. Pháp là chỉ tất cả mọi sự mọi vật, mọi hiện tượng,mọi tướng trạng, mọi tâm tư, mọi ý nghĩ mà chỉ cần khởi nên mỗi một niệm cũng đều là gọi là một pháp. Mà người dính mắc là người bị trói buộc chìm đắm vào dòng chảy vô thường của cuộc sống, của tâm trí, phải chịu trôi lăn trong luân hồi sinh tử, trải qua các đường dữ trong cái tâm trí bị vô minh che dậy mà tạo tác ác nghiệp rồi cứ vậy xoay vần trong lục đạo luân hồi mà không biết khi nào ra khỏi phiền não trầm luân. Chỉ khi ta sống với cái tâm trong sáng, yêu thương dành cho mọi người, mọi loài , thiện lương trong từng ý niệm, nghĩ suy, hành động thì với cái tâm điềm đạm thanh tịnh đó thì chính là chân hạnh phúc, chân giải thoát mà ta không phải mất công tìm kiếm ở đâu xa, mà nó hiện hữu và đầy đủ ngay nơi bổn tâm thanh tịnh trong ta.
Hãy mỉm cười nhẹ nhàng đối diện với các sóng gió cuộc đời, cho dù cuộc đời còn nhiều điều bất như ý, phiền não nhưng bằng con mắt điềm đạm trí tuệ nhìn đời vô thường không bám chấp thì sẽ không bị ràng buộc, tâm đón nhận tất thảy mọi cảm xúc tiêu cực cũng như tích cực, không loại bỏ cũng như không chấp thủ, phân biệt thì nó tự sinh ắt tự diệt, và nó sẽ không còn ảnh hưởng tới thân tâm mình. Và Điềm Đạm là chính là đức hạnh của tâm hồn cao thượng. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5600)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5520)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6920)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4305)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9138)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5462)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5084)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5682)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6172)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5185)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]