Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyện Phiến Đá Đề Thi

03/06/201820:14(Xem: 5245)
Chuyện Phiến Đá Đề Thi

CHUYỆN PHIẾN ĐÁ ĐỀ THI 
 Phien-da-de-thi

 

      Mùa đông gió bão năm 1973, Ôn về Phật học viện Hải Đức, trong hai  tuần lễ làm Phật sự. Mấy lần lên hầu thăm Ôn, đều thấy Ôn bận chỉ vẽ cho mấy Thầy xây Non Bể Bản Đồ Việt Nam, tôi cũng giúp mấy Thầy tìm mua cho ra những ngôi chùa, cái tháp, cái cầu, tượng Phật, ông câu, voi, rùa, thỏ v.v... bằng chất gốm, men, để gắn vào các khe, cây, mới tạo giả cảnh. Mới trông vào, tôi cũng nghĩ Ôn tạo cảnh vui mắt để tăng vẻ nên thơ cho thiền thất. Khi đã tạm hoàn thành non bộ chử S, hội đủ hình ảnh chùa, miếu tượng trưng cho 3 miền. Một chiều, Ôn ngồi dùng trà ngoài hiên. Cầm tách trà nhấp một hớp, mắt nhìn non bộ âu yếm, rồi trầm tư: "Mong cho Bắc Nam hòa hợp, cho đất nước khỏi nạn tai, đồng bào an lạc. Thương quá! Đất mẹ quá khổ, cằn khô vì chiến cuộc kéo dài. Xây bản đồ ni là để nguyện cầu hòa bình cho đất Mẹ..”

       Tôi lặng nghe giọng Ôn nói mà tưởng như tiếng thở dài của núi sông. Và tức khắc cảm ứng được tâm niệm chí thành của Ôn với việc xây non bộ.

       Trước ngày vào lại Già Lam, Ôn chỉ vào một góc nơi non bộ, bảo tôi:

      "Chỗ ni mà dựng một phiến đá, kẽ lên một bài thơ vịnh bản đồ Việt Nam thì hay lắm đây! Tâm Tấn làm đi."

     "Bạch Ôn, bài thơ vịnh đó phải là bài thơ của Ôn sáng tác".

      Ôn cười:

    “Ờ, để tôi nghĩ coi, có nhiều ý mà chưa thành vần. Tôi sẽ gởi ra".

     Mấy tuần sau Thượng tọa Đổng Minh vào Già Lam đem về bài thơ của Ôn, trao cho tôi. Ngoài bì thư, Ôn viết: "Tâm Tấn xem xong rồi giao cho Phước Đường và Minh Thông." Giao, tức là giao cho hai thầy cái việc tìm đá gắn vào non bộ, và viết bài thơ lên đá đó. Tôi tìm hai thầy trao bài thơ và nói qua tâm niệm cùng nhắc lại ý muốn của Ôn. Mười ngày sau lên thiền thất, đưa mắt qua non bộ, vẫn chưa thấy mô đá hiện bài thơ, hay là thơ đề trên đá! Tìm hỏi, hai thầy cười hỏi lại:

       “Đá đâu mà thơ! Bà giỏi tìm đá đem lên.”

      Tôi cũng cười, nhưng không hứa lời chi. Lặng lẽ bước chậm qua đường đồi, nghĩ việc thực hiện phiến đá đề thi, coi dễ mà khó, nhưng khó mà dễ nếu mình bỏ công... Ừ, gắng dâng Ôn chút niềm vui nhỏ: Khi về thăm viện, nhìn bản đồ, Ôn sẽ hoan hỷ vì những trang lòng của Ôn đã trải kề bên. Tôi đón xe lam ra Đồng Đế, bảo ngừng xe lại chỗ núi, nơi có thợ chẻ đá. Từ đường quốc lộ vào chỗ thợ chẻ đá rất xa mà khó đi. Ngồi gần một giờ, chờ thợ chuốt viên đá lớn cho nhẵn, lại ra đường đón xe ba gát, vì xích lô nơi khoảng đường ấy không có. Trả tiền thuê xe, còn trả tiền công họ khiêng đá từ trong núi ra đường, bỏ vào xe, tôi leo lên ngồi chung xe với cục đá, đó là lần đầu tiên tôi ngồi xe ba gát! Tưởng tượng cục đá vô tri này, nay mai được nổi lên bài thơ của Ôn Hòa thượng được ẩn bên vườn cảnh khung thiền, tôi quên nghĩ đó là cục đá, mà lại nhìn nó với vẻ quí trọng. Đây là Phiến đá đề thi. Xe chở thẳng về viện, tôi giao thầy Minh Thông và yêu câu thầy Hạnh Thông, người viết chữ đẹp, dùng sơn viết bài thơ. Tôi kể chuyện ngồi xe ba gát với cục đá, và nói đùa: Thấy tài đảo hải di sơn chưa! Đem núi Đồng Đế về Hải Đức đó. Mấy thầy cười quá.

        Chuyến sau, Ôn về Hải Đức. Lên hầu thăm Ôn, Ôn cũng đem khay trà ra ngồi bên hiên, ban cho một tách trà thơm, Ôn hỏi:

     "Nghe mấy thầy nói Tâm Tấn ra tận Đồng Đế khiêng đá về?"

     "Dạ, con mô có khiêng nổi! Một cục đá nớ mà vận dụng cả xe ba gác, thưa Ôn."

       Ôn cười:

     "Rứa đá trong tâm chở bằng xe chi?"

     Tôi giật mình nhìn lên, thấy Ôn cười và đang chờ câu trả lời. Tôi cũng cười thưa:

     "Bạch Ôn đá trong tâm thì xe mô chở nổi! Uống vài liều thuốc đắng sẽ tự tiêu."

      Ôn lại hỏi:

     "Rứa có gặp phải thuốc đắng, cố mà nuốt đừng than chớ?"

     "Dạ, con không than!"

     Kính lạy Giác linh Ôn, bao nhiêu chất đắng con đã uống qua, nhưng có lẽ chưa cạn tận cùng chiếc cốc nghiệp quả, cho nên đá trong tâm vẫn chưa được tiêu tan. Tuy nhiên, mỗi khi gắng nuốt những đắng cay giữa cuộc thế, con nhớ lời Ôn dặn, dạ, con không than... ...

      Đôi lần, muốn tìm phút giờ yên tĩnh, khi về Viện Hải Đức thường lên Tịnh thất, bước quanh non bộ rồi dừng lặng nơi hiên, chỗ Ôn ngồi uống trà. Nhớ lời Ôn, 15 năm qua rồi, mà như mới đâu đây! Phiến đá đề thi rêu xanh nhuộm sắc thời gian, cánh chiếc én bơi bổng giữa lòng sông, trong không hoạt họa, ý thơ xưa còn đẹp một khung trời.

  

                             Tâm Tấn

                             (1984)

 

 

 

 

Đây là bài thơ của HT. Thích Trí Thủ

được khắc lên phiến đá bên hòn non bộ.

 

CẢM ĐỀ NON BỘ BẢN ĐỒ VIỆT NAM

(tại Thiền thất P.H.V. Nha Trang)

 

Dấn thân mây hạc giang hồ

Chạnh lòng quê mẹ dư đồ Việt Nam.

Này thắng tích, nọ danh lam

Máu xương trang trải ai làm nên khung.

Đúc vun khí tiết hào hùng,

Hai vai gánh nặng Quang Trung - Nguyễn Hoàng.

Trường Sơn một dãy hiên ngang,

Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu. 

Non sông gấm vóc mỹ miều,

Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương.

Dù cho Nam Bắc đôi đường;

Đốt lò hương nguyện bốn phương một nhà,

Sớm hôm hướng nẻo Phật đà,

"Sắc, Không" tâm sự đường xa nẻo gần.

Mong sao giữ vẹn mười phần

Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông.

Gấm vóc gương nước tinh thần,

Đạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/09/2010(Xem: 6746)
Nhiều người hỏi tôi, Phật tử nghĩ gì về hôn nhân đồng tính? Vâng, vấn đề này tùy thuộc vào đối tượng mà bạn nói đến. Cách đây vài năm, trong cuộc phỏng vấn với hãng CBC, đức Dalai Lama đã bác bỏ quan hệ đồng tính, khiến ngạc nhiều người cải đạo sang đạo Phật ngạc nhiên. Đôi khi, họ quá dễ dãi cho rằng đạo đức Phật giáo là phù hợp với quan điểm tiến bộ tiêu biểu của họ. Khi cuộc phỏng vấn của người Gia-nã-đại được lên mạng internet, vài người bị choáng và bị rối, nhưng quan điểm của đức Dalai Lama đưa ra không làm ngạc nhiên đối với bất cứ ai lưu tâm theo dõi vấn đề này. Rốt cuộc thì lập trường của ngài vẫn trước sau như một. Tại một hội nghị cách đây 12 năm, khi các lãnh đạo đồng tính gặp đức Dalai Lama ở San Francisco để thảo luận vấn đề cấm Phật tử Tây Tạng phản đối việc đồng tính luyến ái, ngài đã nhắc đi nhắc lại quan điểm truyền thống rằng đồng tính luyến ái là “tà hạnh”
18/09/2010(Xem: 11855)
Phật bảo sáng vô cùng Đã từng vô lượng kiếp thành công Đoan nghiêm thiền tọa giữa non sông Sáng rực đỉnh Linh Phong
17/09/2010(Xem: 8627)
Gốc tiếng Phạn của chữ cà-salà kasaya.Nhưng thật sự chữ kasayatrong tiếngPhạn không có nghĩa là áomà có nghĩa là bạc màu, cáu cặnhay hư hoại. Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm(màu nhạt), trọchay trược (đục, dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại sắc,bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sacủa người xuất gia tu Phật, của hàng tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèonàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gìvề chiếc áo của một nhà tu Phật giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc nhữngđiều vừa nêu trên đây.
10/09/2010(Xem: 51018)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
08/09/2010(Xem: 5379)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựng là vô cùng mạnh mẽ, tại vì chỉ một giây phút tức giận là có thể phá hủy hết công đức của cả một đời người.
07/09/2010(Xem: 6630)
Chúng ta chỉ có một địa cầu. Người Phật tử và những người có lương tri trên hành tinh này đều giống nhau, đều khát vọng an bình toàn cầu, như cọng cỏ khát ánh mặt trời, như cá khát dòng sông êm dịu. Thế nhưng, khi chúng ta đứng trên một bình diện nào đó của địa cầu, huớng về khát vọng, chúng ta sẽ thất vọng phát hiện: quả địa cầu này tràn đầy bạo động và bất an, chiến tranh cục bộ, tranh giành quân bị, xung đột địa giới, dân tộc mâu thuẫn, giáo phái phân tranh, chủng tộc kỳ thị, tà giáo ngang ngược, khủng bố đe dọa, buôn chích ma túy, tàn phá môi trường, tài nguyên cạn kiệt, giàu nghèo chênh lệch, tội phạm gia tăng, công chức hủ hóa, HIV hoành hành và vô số bệnh thái sa đọa khác của xã hội loài người. Tất cả đó, dù trực tiếp hay gián tiếp, đã và đang phủ lên một màu sắc u ám, đe dọa đến sự an bình trên quả địa cầu này.
04/09/2010(Xem: 9881)
Tôi được một vị Tăng sinh ở Saigon mời góp ý kiến về Bát Kính Pháp khoảng hai tuần trước, nhưng vì khá bận rộn với những công việc tại đây (vừa lo thi cử cho việc trường lớp xong thì lại có duyên sự Phật sự 10 ngày tại Minnesota) nên đã khất hẹn với vị ấy là: khi nào tranh thủ được thời gian thì tôi sẽ xem xét vấn đề kỹ hơn để bàn cùng quý vị. Lúc ấy tôi nghĩ rằng: những vị Tăng sinh này sẽ tìm được câu trả lời cho những nghi vấn liên quan đến Bát Kính Pháp nhanh chóng thôi, vì ở Việt Nam hiện có rất nhiều chư Tôn Đức chuyên nghiên cứu, hiểu sâu sắc và hành trì Luật tạng miên mật, các vị dễ dàng đến đảnh lễ thưa hỏi.
04/09/2010(Xem: 5847)
Đọc xong những câu chuyện của các phụ nữ ở Hoa Kỳ và kinh nghiệm của các vị đối với đạo Phật, chúng tôi đã rất hoan hỷ và xúc động trước những nhận thức sâu xa của họ về cuộc sống, con người và môi trường chung quanh... Những lời dạy của đức Phật vừa nhiệm màu vừa thực tiễn đến làm sao! Những lời giảng dạy ấy đã chữa lành, loại bỏ những khổ đau và đem lại sự bình an, hạnh phúc đến hàng vạn con người trong nhiều thế kỷ qua. Sau đây là các câu chuyện của những phụ nữ người Hoa Kỳ từ các nguồn gốc khắp nơi trên thế giới. Những câu chuyện về hạnh phúc và sự sống trong tỉnh thức của họ qua sự tu tập và trở về với Đạo Phật. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu và chia xẻ cùng bạn đọc.
02/09/2010(Xem: 5653)
Phiêu linh bao kiếp luân hồi - Phút giây hội ngộ, đời đời khổ đau - Mịt mùng tăm tối lạc nhau- Mang mang sáu cõi lao đao kiếm tìm
30/08/2010(Xem: 7434)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567