Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chướng Duyên

05/05/201807:29(Xem: 5146)
Chướng Duyên


hoa_sen




CHƯỚNG  DUYÊN


Cuộc sống không ai tránh khỏi những phiền muộn, rắc rối. Phước duyên lớn thì chướng duyên nhẹ. Thế gian xem nhẹ phước báu, hành động tội lỗi, gây nhiều ác nghiệp, dĩ nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cuộc sống.Người tin nhân quả, cân nhắc từng lời nói, ý nghĩ, hành động tránh gây đau khổ cho kẻ khác, làm nhiều việc thiện, chướng duyên cũng sẽ giảm thiểu.

Nơi đây, trong phạm vi những người tu tập, thường gặp lắm chướng duyên, lý do từ đâu?

Thế nào là người tu tập? cuồng nhiệt với tín ngưỡng có phải là tu tập? thành kính siêng năng tụng niệm, thực hiện lễ nghi tôn giáo là cách tu tập? Bố thí cúng dường, tạo lập cơ sở tín ngưỡng, đúc chuông tạo tượng là thực hiện việc tu tập? siêng đi đền chùa nhà thờ, thánh thất…là tu tập…Tóm lại thực hiện mọi hình thức mang tính tín ngưỡng, tôn giáo mà phần lớn được xem là tu tập?

Những việc làm cho dù là thiện lành, mang tính hình thức đều thuộc lĩnh vực phước báu.Nếu việc làm thiện lành mà dụng ý cầu danh hay lợi dụng thì việc làm đó tạo thêm nhân xấu.

Mọi việc làm thể hiện như sựsùng kính tôn giáo, tín ngưỡng, lễ nghi chỉ thuộc đức tin chứ không thể gọi là hành trì về tâm linh.Những việc như vậy chỉ gieo duyên lành cho niềm sùng kính; đức tin hình tướng sẽ gặp những chướng duyên ngoại cảnh do tập khí đã gieo trồng trong quá khứ;dù thể hiện sự sùng kính tín ngưỡng hay không, chướng duyên đủ điều kiện vẫn xảy đến.

Người chuyên tu về tâm linh, gọi là thiền sinh,hoặc hành giả, bất cứ tông phái nào, có những trường hợp như:

1/ Được hướng dẫn bởi một vị minh sư chứng đắc, thiền sinh dễ vượt qua những chặng đường khúc mắc do nghiệp chướng tạo ra; vị thầy đủ kinh nghiệm giải tỏa những chướng duyên hoặc khai thị cho thiền sinh biết những chướng duyên do từ tập khí quá khứ để hóa giải.

2/ Hành giả hoặc thiền sinh không có căn bản lý thuyết việc hành trì, tự đọc sách, tìm hiểu, không được những bậc thầy đủ kinh nghiệm dẫn dắt, trong quá trình hành tập, hạt giống bất thiện tiềm ẩn trong tạng thức xuất hiện, cản trở việc tu tập, không biết cách hóa giải, lúng túng giữa pháp hành ngũ ấm xuất hiện, dễ đưa đến “tẩu hỏa nhập ma”. Khi tâm định, tưởng thức lắng đọng, cũng là lúc hạt giống bất thiện từ A lạ da trổi dậy.

Từng có những hành giả than phiền trong thời gian hành tập thì những tập khí cứ xuất hiện. Những tập khí có thể là tánh sân, có thể là tánh dục, có thể là một hình tướng hay động vật nào đó làm cho hành giả thiếu tập trung hoặc sợ hải…mặc dù hành giả không bao giờ khởi ý nhưng nó vẫn xuất hiện mỗi khi công phu thiền tập.

Có một hành giả khi nhập định là thấy con rắn xuất hiện trong ánh sáng mờ từ xa.Có hành giả cứ thấy mỹ nhân mỗi khi thiền tọa, cũng không thiếu hành giả khởi dục cho dù vẫn cố gắng công phu. Tóm lại, chính những chướng duyên đó đã làm chướng ngại trên đường tu của hành giả. Ngay cả thái tử Tất Đạt Đa trước giờ thành đạo cũng bị ma vương đến đe dọa, quyến rũ đủ thứ.

Nhiều hành giả tìm cách dụng công đối trị càng bị khủng hoảng, hoặc càng tránh né càng bị lún sâu, dùng pháp hành đè nén nó càng ngấm ngầm bộc phát, buông xuôi xem như tự đầu hàng nghiệp thức.

Cái nguy hiểm hành giả bị lừa dối, cứ tưởng mình đứng ngoài vọng tưởng lúc hành tập, thấy rõ mọi diễn tiến của tâm thức xuất hiện như  một khách quan đứng ngoài quan sát, chính trạng thái này nguy hại hơn những chướng duyên đối diện thực sự. Đừng tự mãn khi ở trạng thái an định ảo, đưa hành giả vào con đường tưởng thức xuât hiện những ảo ảnh mà cứ ngỡ là thể nghiệm chứng đác ở một tầng bậc nao đó.

Đời hay đạo, sùng tín hay hành tập, mỗi vị thế đều có một chướng duyên, chướng duyên nguy hại nhất là chướng duyên của những hành giả tâm linh, dễ lạc dẫn vào con đường ảo tưởng. Vì thế, người tu tập thiền định cần có một vị minh sư hay một vị thầy đủ kinh nghiệm hướng dẫn vượt qua những chặng đường chướng duyên khởi từ nghiệp thức. Tự mình đi vào con đường thiền định là hành động liều lĩnh. Phải biết tập khí nặng nhất của mình là gì, tìm cách hóa giải hạt giống đó trước khi bước vào đạo lộ mênh mông của tâm thức.


MINH MẪN

04/5/2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5606)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4311)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9143)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5470)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5092)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5691)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6189)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5196)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]