Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ra Đi và Trở Về

27/04/201809:06(Xem: 6207)
Ra Đi và Trở Về


duc the ton 2

RA ĐI VÀ TRỞ VỀ

Thích Tâm Tôn






Ra đi và trở về là hai mệnh đề rất rộng trong nhiều phạm trù của cuộc sống. Có thể hiều theo ý nghĩa chu kỳ hai chiều vận hành đến và đi hiện hữu trong phạm trù tuần hoàn thời gian, hay lẽ phân định khoảng cách gần- xa hai hướng trong phạm trù không gian hữu hạn, và có thể là lẽ tất nhiên phải trải qua của cả một đời người bởi hai điều sống- chết sẽ đi qua theo qui luật vô thường…. Nhưng có lẽ hơn hết, hiểu theo cách rất giản dị của nhà Thiền về ý nghĩa cuộc sống chính là tìm hiểu và thấy được của trải nghiệm, hay khám phá và Tuệ tri các pháp trong sự hiện hữu như chính là. Nếu ra đi là tìm kiếm, thì trở về chính là thấy được. 

Cụ bà gầy guộc ngày qua ngày vẫn ngồi bên gốc nhỏ của con đường xin ăn từng bửa lẻ. Ta vẫn ngày ngày chừng ấy thời gian ngang qua theo sự bôn ba của dòng người xuôi ngược. Những vô tình còn nhiều toan tính kéo xa ta với tình thương mà lẽ ra rất cần trang trải nhiều hơn mỗi ngày cho chính cuộc sống với những diễn tiến trước mắt này. Bất chợt một buổi sáng, em bé nhỏ trên đường theo mẹ đến trường xin được dừng xe để trao cho người ăn xin nửa phần ổ bánh mì mẹ vừa mua  mà lẽ ra em phải dùng hết cho buổi sáng. Bao chạnh lòng về một hành động rất nhỏ, nhưng mang một tâm hồn rất đẹp như được thức dậy sau đêm dài vị kỷ giữa dòng người hối hả cùng với sự dằn vặt trĩu nặng sâu thẳm nội tâm của bao suy tư. Thật sự ta đã bỏ lại rất nhiều điều mà lẻ ra rất cần nhiều lưu tâm giữa cuộc sống đầy thờ ơ này. Chính ta rất cần những gì ý nghĩa thật của cuộc sống đang trôi đánh thức mỗi ngày để những điều tích cực không bị ngủ vùi bất động không cơ hội hồi sinh. "Sứ mệnh”  hai từ nghe to tát quá với những gì rất nhỏ bé mà thường ngày ta vẫn chưa thể làm được một cách chân thật vốn dĩ, thua xa sự hồn nhiên với việc làm của em bé dành cho cụ bà ăn xin giữa gốc nhỏ ồn ào. 

Mõi chúng ta  đều đã đi qua cuộc đời này trong giới hạn nhất định nào đó. Và phần lớn cuộc sống ấy, hoặc là chủ động hoặc là bị động luôn cố hướng tới như chỉ có những gì ở phía trước mới là đích nhiệm màu. Những giá trị chân thật nhất vẫn thường hiện hữu trong những điều dung dị nếu tận dụng được sự kiểm nghiệm chân thành. Có khi nét đẹp sâu thẩm bao la vô cùng cũng hiện hữu gần gũi ngay giữa cuộc sống quanh ta. 

Tôi đã xem qua tác phẩm kí sự rất hay tên A Walk In The Woods (Chuyến Cuốc Bộ Trong Rừng) của kí giả  Bill Bryson được Ken Kwapis chuyển thể thành phim. Sau hai thập kỷ sống ở Anh, Bill Bryson quay trở về Mỹ, nơi ông quyết định rằng cách tốt nhất để gắn mình với quê hương và những cảm nhận chân thật  hồn nhiên nhất là  thực hiện chuyến bộ hành tiến vào rừng Appalachian Trail cùng với một trong những người bạn thân nhất của ông tên Stephen. Đặc biệt, trong chuyến du hành của hai người, các ông không bỏ qua bất cứ một điều nhỏ bé nào mà hai ông bắt gặp được. Từ những điều nhỏ có những cuộc đối thoại giữa hai ông già giống như hai cậu bé tóc bạc biết triết lí về cuộc sốngTônbằng những suy nghĩ của cả một cuộc đời chín mùi những từng trải theo cách hết sức mộc mạc hồn nhiên. Hai ông đã trượt chân kéo nhau ngã xuống suối. Trong khi bò lồm cồm dưới nước với hai ba lô ướt đẫm sau lưng, hai ông vẫn nói nhau rằng: ôi thật khoan khoái.  Stephen thắc mắc: Tại sao cuộc sống của hai chúng ta xem như quá đủ rồi, lẽ ra cuộc đời của ông và tôi đơn giản là giờ nghĩ đến chiếc Volvo, chứ đâu cần phải đi thế này. Thật ra chúng ta cần gì chứ?  Bill Bryson trích câu nói của một nhà triết lí tên John Muir nào đó: "đôi khi con người cần phải lấy một ổ bánh mì cất vào bao tải rồi nhảy qua hàng rào chắn sau lưng”. Blii Bryson cho rằng: không phải vì sự hoàn hảo bên trong hàng rào, mà là ông ta có lí do của mình. Stephen tiếp lời: thật ra ông là con thú bị giam cầm muốn trở về khu rừng sống lại một chút. còn tôi là con nợ chưa trả nổi số nợ còn lại. Cả hai ồ cười thật thoả chí. Stephen có ý nhắc lại: tại sao hai chúng ta tới đây? câu trả lời là: tại ông không có việc gì tốt hơn để làm. Thế mà khi Stephen hỏi: ông thấy có hạnh phúc không? Bill Bryson ngạo nghễ hỏi lại: Câu hỏi kiểu quái gì thế? và ngay lúc đó, trước mắt họ lại hiện ra cảnh những ngọn núi trùng điệp thật đẹp khiến cả hai đều thấy thoả chí lạ kì. Và từ đó họ có thể khám phá những lớp trầm tích huyền bí có lịch sử hàng triệu triệu năm. Có một điều rất đặc biệt trong câu chyện của hai ông. Stephen là người có thói quen uống rượu và rất thích những cảm giác hưng phấn với những gì từ rượu mang đến. Ông đã giấu chai Whisky trong ba lô suốt chặng hành trình đã qua mà người bạn đồng hành không hề biết. Rồi đến lúc Ông cần lấy nó ra và tâm tình với người bạn của mình khi ý chí chủ quan của ông đủ mạnh để chiến thắng những cảm giác thường tình. Tôi mang theo nó để nhắc tôi sẽ không dùng đến nó nữa trong khoảng thời gian còn lại của cuộc đời. Và người bạn đã tin ông làm được điều đó. Ông nhờ người bạn mở nấp chai rượu và tự tay đổ chai rượu. Một câu chuyện rất đẹp về lòng tự tin, ý chí, và sự giải thoát thật sự tự tại từ chính những thứ tưởng chừng như là hệ luỵ mà ta không thể vượt qua được.

Cách đây không lâu, Hoà Thượng Nhất Hạnh đã trở về Huế-quê hương Ngài được sanh ra và tiếp nhận mạch sống cả nghĩa đạo lẫn đời, như thực hiện một điều kì diệu trở về với những gắng kết tâm tình sâu thẳm. Sự thôi thúc của lẽ sống tự nhiên được tăng thượng bởi nội tâm giàu chất liệu mới có thể gắng kết một cách trọn vẹn những hiện hữu lại với nhau. Đó là lí do tại sao Hoà thượng Nhất Hạnh cuối cuộc đời mong được trở về với đất mẹ để cho đôi chân gầy guộc của mình đã một đời hành cước khắp nơi, được tiếp xúc thêm một lần nữa với tình thương của hồn quê hương vô tận nuôi dưỡng trong mạch sống của mình. Một con người thân bịnh phải ngồi trên xe, thế nhưng khi Ngài chạm đôi bàn chân trên lòng đất mẹ đã thể hiện lên tất cả sức mạnh của sự vững chãi đầy thanh thoát từ sâu thẳm tâm thức kiên định. Một sự trở về không chỉ có giá trị său sắc mang nét đẹp văn hoá cội nguồn, mà còn chính là chuyến trở về thể nghiệm đủ cả nét đẹp văn hoá tâm linh với chính Ngài và cho tất cả chúng ta. Con người của văn hoá dân tộc được thể hiện  giản đơn như thế, thiền sư của văn hoá tâm linh giải thoát được thể hiện nhẹ nhàng trong việc làm mang ý nghĩa tinh tế là thế, chứ cần đâu những logo cố sức trang hoàng nhuệch nhoạc được gắng đâu đó khoe khoang mới thể hiện được những gì của giá trị. Thật xúc động cho ai được chứng kiến sự tiếp xúc diệu kì ấy giữa một nơi chứa đủ nội hàm của sức sống được thực hiện bởi một hiện hữu với những tương quan hình thành nên sự hiện hữu đó như hai năng lượng lạ thường biểu hiện trong một gắng kết. 

Trong nhiều kinh đức Phật dành nhiều lưu tâm khuyên các thầy Tỳ Kheo: "Này các Tỳ Kheo, các thầy hãy ra  đi mỗi người một ngã. Hãy vì sự tốt đẹp của nhiều người”. Đây đích thực là cách ra đi theo ý nghĩa trở về.  Và đọc qua kinh Du Hành, nói về hành trình nhiều tháng cuối cuộc đời của đức Phật, càng thấy hình ảnh đức Phật thân thương như thế nào qua những điều hết sức dung dị và đẹp biết bao trong ý nghĩa trên.

Ngoài 80 tuổi, đức Phật thực hiện một chuyến đi nhiều tháng với hành trình 13 xứ sở lớn nhỏ là điểm sáng tột cùng của cuộc đời Ngài. Trên suốt hành trình trải qua ấy , bao nhiêu khó khăn về hoàn cảnh và những biểu hiện giới hạn của báo thân nếu được liên tưởng thì đủ cả bao chướng ngại. Nếu đắn đo cho điều đó, chắc chắn hành trình lịch sử ấy không tô thêm nét đẹp cuộc đời đức Từ Phụ của chúng ta như lịch sử ghi nhận. Những đoạn kí sự ấy được ghi chép khá rõ trong nhiều tình huống xãy ra lúc bấy giờ trong kinh Du Hành.  Có khi đức Phật phải chịu khát vì A nan quan sát thấy: “Vừa rồi có năm trăm cỗ xe lội qua khúc trên sông làm nước đục cả. Chỉ có thể dùng rửa chân, không thể dùng uống được.” Có khi phải chịu đói vì ở những nơi hoang vu và thiếu thốn để thực hiện pháp khất thực, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Đất này đói kém, khất thực khó khăn, các ngươi nên chia thành từng nhóm, tùy theo chỗ quen biết, hãy đến Tỳ-xá-ly và nước Việt-kỳ mà an cư ở đó để có thể không bị thiếu thốn. Ta một mình cùng với A-nan an cư ở đây.”

Đức Phật thực hiện hành trình trong hoàn cảnh tuổi tác và sức khoẻ như thế chắc hẳn không phải vì mục đích thưởng ngoạn. Từ đầu duyên khởi của chuyến đi đối với Ngài là cả một sứ mệnh rất lớn là cứu vãn hai quốc gia Ma Kiệt Đà và Bạt Kỳ thoát nguy cơ chiến tranh. Và khi những gì cần làm đã được làm xong, sự tự tại dung dị của một nhà du khất vẫn mặt cho hiện tướng thân bịnh của tuổi xế chiều hành hạ, Ngài vẫn tựa chân dưới những gốc cây nơi rừng sâu để ngỉ ngơi phục hồi sức khoẻ rồi tiếp tục thực hiện cho hành trình tiếp theo. Thường tựa lưng dưới gốc cây, Đức Phật  bảo A-nan: “Ta đau lưng quá, hãy sửa chỗ ngồi.”

A-nan đáp: “Vâng”. Rồi dọn một chỗ ngồi. Như Lai nghỉ ngơi. A-nan lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên.

Chúng ta thấy rất rõ, đi đến xứ sở nào hình ảnh đức Phật ngồi dưới gốc cây hoặc Ba Lăng, hoặc Am bà bà lê ( Cây Xoài), hoặc cây Xà đầu, cây Sala….Đây là hình ảnh tiêu biểu của nét đẹp xuyên suốt cuộc đời một hành giả du phương hoàng đạo đúng nghĩa. Khi đến ngoài Thành Ba Lăng Phất đức Phật ngồi dưới gốc cây Ba lăng, những người dân của làng thấy Ngài liền đến đảnh lễ và xin cúng dường. Đặc biệt, sau khi đêm tàn buổi sớm, Ngài lại chọn nơi thanh vắng để ngồi trải nghiệm không gian nơi đây. Đến đâu đức Phật luôn thể hiện một nhà quan sát mọi vấn đề như tìm những điều kì diệu trong mọi sự hiện hữu để tuệ tri mọi thực tại như thật với chính nó. Một sự kiểm chứng không bỏ sót bất cứ một thực tại nào của bậc giải thoát hoàn toàn không còn sự tinh tế nào hơn. Ở đây sự kiểm chứng thực tại  về địa lí và những điều thâm bí được thực hiện cũng thường được đề cập từ nơi đức Phật với những nơi Ngài dừng chân chứ như nhà phong thuỷ học. Ngài phân tích rất chi tiết những điều tốt đẹp của địa thế nơi này thông qua cuộc trò chuyện với A Nan: “Người tạo ra thành này rất hợp ý trời. Lúc đêm đã tàn, trời vừa sáng, Ta đi tới chỗ thanh vắng, bằng thiên nhãn, xem thấy các Đại Thiên thần mỗi vị phong thủ đất đai nhà cửa riêng, các trung thần, hạ thần cũng phong thủ đất đai nhà cửa. A-nan! Nên biết chỗ đất đai nhà cửa nào được Đại Thiên thần phong thủ, ai ở đó tất được an lạc nhiều ; còn chỗ trung thần phong thủ thì hàng trung nhân ở; chỗ hạ thần phong thủ thì hạ nhân ở và công đức nhiều ít cũng tùy theo chỗ ở ấy.

“Này A-nan, chỗ này là chỗ hiền nhân ở, kẻ bán buôn qui tụ, phép nước đúng đắn không dối ngụy. Thành này rất tốt, được mọi nơi suy tôn, không thể phá hoại. Lâu về sau nếu có bị phá chăng chỉ do ba việc; một là bị nước lớn, hai là bị lửa lớn và ba là bị người trong thông mưu với người ngoài phá hoại được thành này.” -Tuệ Sỹ dịch 

Những bước chân Ngài dừng lại và đi qua đều lưu lại những giá trị rất đẹp trong lòng cho những ai được hạnh duyên gặp Ngài. Những dấu ấn tốt đẹp ấy còn lưu lại những gì mà hàng ngàn năm nay vẫn còn sinh động trong thế giới đầy biến động này. 

Bấy giờ, sau thời  pháp tại Ba Lăng Phất, Đức Thế Tôn liền rời khỏi chỗ, đại chúng hầu quanh đưa Ngài trở về. Đại thần Vũ-xá đi theo sau Phật, nghĩ rằng: "Hôm nay, nhân Đức Sa-môn Cù-đàm đi qua cửa thành này, ta hãy gọi cửa này là cửa Cù-đàm. Bến sông mà Phật sang ngang, được đặt tên chỗ đó là bến Cù-đàm."

Đức Thế Tôn ra khỏi thành Ba-lăng-phất, đi đến bờ sông. Lúc ấy, trên bờ sông có nhiều người, trong số đó có người thì dùng thuyền, có người dùng bè, có người dùng phà mà sang sông. Đức Thế Tôn cùng đại chúng chỉ trong khoảnh khắc, như lực sĩ co duỗi cánh tay, đã đến cả bên kia sông.

Và ý nghĩa vô cùng của chuyến đi này đã mở ra rất nhiều cuộc hội ngộ mang đầy ý nghĩa đẹp cả chủ thể hoàng pháp là chính đức Phật và đối tượng được giáo hoá trên hành trình Ngài đi qua.  Không bỏ sót lại bất cứ một ai dù là kỷ nữ hay một cụ già. Và một sự xác nhận rất chân thành như phai phá hết mọi trầm tích khi đánh giá về sự tác đông của vô thường với xác thân Ngài nhưng không chi phối được tinh thần giải thoát của một hành giả hoàn mãn hạnh nguyện.  "Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn.

Thật sự "sức định, thân an ổn, không náo loạn" ấy nơi đức Phật được kiểm chứng rõ ràng nhất qua những lời di giáo được xem như bản di chúc bất hủ, một di sản tinh thần vô giá của những gì cho hạnh giải thoát được thực hiện giữa rừng sâu nơi đêm khuya thanh vắng, ngay trong giờ phút Ngài trở về với bản thể Chân Như. Chắc chắn đó chỉ có thể  từ một nhân cách sống đầy đủ sự chân thật, đầy đủ sự kiểm nghiệm về mọi giá trị , và đặc biệt tự thân giải thoát hoàn mãn mới thể hiện đủ ý nghĩa ra đi và trở về tuyệt đẹp đến như thế. 

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2021(Xem: 4870)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020, in loại bìa cứng mạ vàng rất trang nhã. Tất cả có 180 trang chữ nhỏ. Tác giả là một vị Hòa Thượng người Tích Lan đã ở Hoa Kỳ lâu năm, và dĩ nhiên là Hòa Thượng Gunaratana đã dịch và tham cứu từ bản tiếng Pali, vốn là những Kinh điển gốc của Phật Giáo Nam Truyền và Ngài đã viết cũng như bình chú bản kinh nầy bằng tiếng Anh nhan đề là: Meditation on Perception-Ten Healing Practices to Cultivate Mindfulness. Thầy Thanh An là một nghiên cứu sinh về Phật Giáo ở bậc Tiến Sĩ tại Đại Học Kelaniya, Tích Lan. Thầy Thanh An cho biết đây là tác phẩm đầu tay của Thầy ấy dịch từ Anh Văn ra Việt Văn.
11/03/2021(Xem: 4406)
Chính quyền Trung ương rất mong muốn quảng bá việc Nghiên cứu Phật giáo tại Ấn Độ, và đang chuẩn bị sẵn sàng một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về các trường Đại học Ấn Độ, cung cấp các chương trình Phật học. The University Grants Commission (UGC) đã gửi một Chỉ thị đến tất cả các trường học để cung cấp dữ liệu liên quan về các chương trình học liên quan đến Phật giáo. Điều này được cho là sẽ hồi sinh Ấn Độ, như một trung tâm nghiên cứu và truyền thống Phật giáo trên toàn thế giới.
10/03/2021(Xem: 7780)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
09/03/2021(Xem: 4298)
Đài Bắc, Đài Loan: Vào ngày 7 tháng 3 vừa qua, trong một cuộc mít tinh đông đảo do Hiệp hội Phúc lợi Tây Tạng Đài Loan (在 台 藏人 福利 協會) và Mạng lưới Nhân quyền cho Tây Tạng, Đài Loan (西藏 台灣 人權 連線 會), hơn 34 tổ chức phi chính phủ từ khắp đất nước Đài Loan, đã cùng tham gia kỷ niệm 62 năm ngày tổng khởi nghĩa chống Tàu cộng xâm lăng 10/3/1959-10/3/2021. Cuộc mít tinh cũng đánh dấu kỷ niệm gần 70 năm ngày Ký kết Thỏa thuận 17 điểm giữa Tây Tạng và nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc.
09/03/2021(Xem: 4808)
Cái gì là “Không thường cũng không đoạn”?Ý nghĩa “Không Thường” chính là tất cả sự vật không phải cố định vĩnh cữu bất biến, mà là thời khắc nào cũng bị biến đổi mãi mãi.Ý nghĩa “Không Đoạn” là chỉ trong chỗ biến đổi này chưa từng có dừng lại, cũng chính là chưa có phút giây nào “Gián Đoạn”.Giả sử như sự sự vật vật trong thế giới này đích thực có thật tại thì không cần phải phát sanh ra hiện tượng “Không”.Hôm qua có mà hôm nay không thì đây chính thuộc về “Đoạn”.Còn nếu như có vĩnh cữu thì đó chính thuộc về “Thường”.Thử hỏi thế giới hiện thật đây là “Đoạn” như thế nào và “Thường” như thế nào? Đúng ra sự sự vật vật trên thế giới đều là “Không, không phải thường cũng không phải đoạn”.
09/03/2021(Xem: 8651)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
08/03/2021(Xem: 4089)
Dharamshala: Danh sách tham gia ngày càng tăng, bởi các nhà lãnh đạo thế giới đã được tiêm vaccine COVID-19, vào đầu giờ hành chính ngày 6 tháng 3 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal, Dharamshala, H.P., Ấn Độ. Sau khi tiêm liều vaccine COVID-19, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi tất cả những người đủ điều kiện, đặc biệt là ‘bệnh nhân bị nhiễm covid-19’ hãy vì lợi ích chung cho xã hội, nhanh chóng đăng ký tiêm liều vaccine COVID-19. “Điều này rất quan trọng, vì vậy tôi đã thực hiện việc tiêm vaccine COVID-19, tôi muốn chia sẻ nhiều người nên đã can đảm để thực hiện tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal.
07/03/2021(Xem: 7247)
Huế, cố đô một thời, là thành phố nhỏ bé như vậy mà lại có nhiều chùa nhất so với các miền khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Bởi, nơi đây có chiều dài lịch sử lập quốc của nhà Nguyễn từ khi người đầu tiên khai mở là Nguyễn Hoàng, muốn tránh sự sát hại của người anh rể là Trịnh Kiểm nên xin đi xa vào Nam để khai khẩn đất hoang theo sự vấn kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua câu phán: “ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.“ Và, Chùa Thiên Mụ danh Tự có từ đó. Đứng đầu bảng trong 10 ngôi chùa nổi tiếng tại Huế.
07/03/2021(Xem: 4840)
“Ai thấy Pháp người ấy thấy Ta, ai thấy Ta người ấy thấy Pháp”. Đây là lời dạy của đức Phật dành cho tỷ-kheo Vakkali. Lời dạy này được ghi lại trong Kinh Tiểu Bộ và Kinh Tương Ưng; do Hòa thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pàli sang tiếng Việt. Trước khi tìm hiểu lời dạy trên của đức Phật, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ngài Vakkali một chút.
06/03/2021(Xem: 4670)
Kính bạch Thầy nhân ngày phụ nữ sắp tới và còn trong tháng giêng, con chợt nghe bài hát này , nhớ đến trong bài pháp thoại Thầy kể về cụ bà Tâm Thái . Kính dâng bài thơ này đến Cụ Bà Tâm Thái và những bà mẹ từ thôn quê đến thị thành nhân ngày phụ nữ . Kính, HH Lễ hội 8/3 ngày phụ nữ bình đẳng ! Những bà mẹ quê ....từ sáng tinh mơ, Có khi nào nghĩ đến quyền lợi bao giờ. Sáng chiều vất vã hy sinh trong lặng lẽ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]