Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ra Đi và Trở Về

27/04/201809:06(Xem: 6548)
Ra Đi và Trở Về


duc the ton 2

RA ĐI VÀ TRỞ VỀ

Thích Tâm Tôn






Ra đi và trở về là hai mệnh đề rất rộng trong nhiều phạm trù của cuộc sống. Có thể hiều theo ý nghĩa chu kỳ hai chiều vận hành đến và đi hiện hữu trong phạm trù tuần hoàn thời gian, hay lẽ phân định khoảng cách gần- xa hai hướng trong phạm trù không gian hữu hạn, và có thể là lẽ tất nhiên phải trải qua của cả một đời người bởi hai điều sống- chết sẽ đi qua theo qui luật vô thường…. Nhưng có lẽ hơn hết, hiểu theo cách rất giản dị của nhà Thiền về ý nghĩa cuộc sống chính là tìm hiểu và thấy được của trải nghiệm, hay khám phá và Tuệ tri các pháp trong sự hiện hữu như chính là. Nếu ra đi là tìm kiếm, thì trở về chính là thấy được. 

Cụ bà gầy guộc ngày qua ngày vẫn ngồi bên gốc nhỏ của con đường xin ăn từng bửa lẻ. Ta vẫn ngày ngày chừng ấy thời gian ngang qua theo sự bôn ba của dòng người xuôi ngược. Những vô tình còn nhiều toan tính kéo xa ta với tình thương mà lẽ ra rất cần trang trải nhiều hơn mỗi ngày cho chính cuộc sống với những diễn tiến trước mắt này. Bất chợt một buổi sáng, em bé nhỏ trên đường theo mẹ đến trường xin được dừng xe để trao cho người ăn xin nửa phần ổ bánh mì mẹ vừa mua  mà lẽ ra em phải dùng hết cho buổi sáng. Bao chạnh lòng về một hành động rất nhỏ, nhưng mang một tâm hồn rất đẹp như được thức dậy sau đêm dài vị kỷ giữa dòng người hối hả cùng với sự dằn vặt trĩu nặng sâu thẳm nội tâm của bao suy tư. Thật sự ta đã bỏ lại rất nhiều điều mà lẻ ra rất cần nhiều lưu tâm giữa cuộc sống đầy thờ ơ này. Chính ta rất cần những gì ý nghĩa thật của cuộc sống đang trôi đánh thức mỗi ngày để những điều tích cực không bị ngủ vùi bất động không cơ hội hồi sinh. "Sứ mệnh”  hai từ nghe to tát quá với những gì rất nhỏ bé mà thường ngày ta vẫn chưa thể làm được một cách chân thật vốn dĩ, thua xa sự hồn nhiên với việc làm của em bé dành cho cụ bà ăn xin giữa gốc nhỏ ồn ào. 

Mõi chúng ta  đều đã đi qua cuộc đời này trong giới hạn nhất định nào đó. Và phần lớn cuộc sống ấy, hoặc là chủ động hoặc là bị động luôn cố hướng tới như chỉ có những gì ở phía trước mới là đích nhiệm màu. Những giá trị chân thật nhất vẫn thường hiện hữu trong những điều dung dị nếu tận dụng được sự kiểm nghiệm chân thành. Có khi nét đẹp sâu thẩm bao la vô cùng cũng hiện hữu gần gũi ngay giữa cuộc sống quanh ta. 

Tôi đã xem qua tác phẩm kí sự rất hay tên A Walk In The Woods (Chuyến Cuốc Bộ Trong Rừng) của kí giả  Bill Bryson được Ken Kwapis chuyển thể thành phim. Sau hai thập kỷ sống ở Anh, Bill Bryson quay trở về Mỹ, nơi ông quyết định rằng cách tốt nhất để gắn mình với quê hương và những cảm nhận chân thật  hồn nhiên nhất là  thực hiện chuyến bộ hành tiến vào rừng Appalachian Trail cùng với một trong những người bạn thân nhất của ông tên Stephen. Đặc biệt, trong chuyến du hành của hai người, các ông không bỏ qua bất cứ một điều nhỏ bé nào mà hai ông bắt gặp được. Từ những điều nhỏ có những cuộc đối thoại giữa hai ông già giống như hai cậu bé tóc bạc biết triết lí về cuộc sốngTônbằng những suy nghĩ của cả một cuộc đời chín mùi những từng trải theo cách hết sức mộc mạc hồn nhiên. Hai ông đã trượt chân kéo nhau ngã xuống suối. Trong khi bò lồm cồm dưới nước với hai ba lô ướt đẫm sau lưng, hai ông vẫn nói nhau rằng: ôi thật khoan khoái.  Stephen thắc mắc: Tại sao cuộc sống của hai chúng ta xem như quá đủ rồi, lẽ ra cuộc đời của ông và tôi đơn giản là giờ nghĩ đến chiếc Volvo, chứ đâu cần phải đi thế này. Thật ra chúng ta cần gì chứ?  Bill Bryson trích câu nói của một nhà triết lí tên John Muir nào đó: "đôi khi con người cần phải lấy một ổ bánh mì cất vào bao tải rồi nhảy qua hàng rào chắn sau lưng”. Blii Bryson cho rằng: không phải vì sự hoàn hảo bên trong hàng rào, mà là ông ta có lí do của mình. Stephen tiếp lời: thật ra ông là con thú bị giam cầm muốn trở về khu rừng sống lại một chút. còn tôi là con nợ chưa trả nổi số nợ còn lại. Cả hai ồ cười thật thoả chí. Stephen có ý nhắc lại: tại sao hai chúng ta tới đây? câu trả lời là: tại ông không có việc gì tốt hơn để làm. Thế mà khi Stephen hỏi: ông thấy có hạnh phúc không? Bill Bryson ngạo nghễ hỏi lại: Câu hỏi kiểu quái gì thế? và ngay lúc đó, trước mắt họ lại hiện ra cảnh những ngọn núi trùng điệp thật đẹp khiến cả hai đều thấy thoả chí lạ kì. Và từ đó họ có thể khám phá những lớp trầm tích huyền bí có lịch sử hàng triệu triệu năm. Có một điều rất đặc biệt trong câu chyện của hai ông. Stephen là người có thói quen uống rượu và rất thích những cảm giác hưng phấn với những gì từ rượu mang đến. Ông đã giấu chai Whisky trong ba lô suốt chặng hành trình đã qua mà người bạn đồng hành không hề biết. Rồi đến lúc Ông cần lấy nó ra và tâm tình với người bạn của mình khi ý chí chủ quan của ông đủ mạnh để chiến thắng những cảm giác thường tình. Tôi mang theo nó để nhắc tôi sẽ không dùng đến nó nữa trong khoảng thời gian còn lại của cuộc đời. Và người bạn đã tin ông làm được điều đó. Ông nhờ người bạn mở nấp chai rượu và tự tay đổ chai rượu. Một câu chuyện rất đẹp về lòng tự tin, ý chí, và sự giải thoát thật sự tự tại từ chính những thứ tưởng chừng như là hệ luỵ mà ta không thể vượt qua được.

Cách đây không lâu, Hoà Thượng Nhất Hạnh đã trở về Huế-quê hương Ngài được sanh ra và tiếp nhận mạch sống cả nghĩa đạo lẫn đời, như thực hiện một điều kì diệu trở về với những gắng kết tâm tình sâu thẳm. Sự thôi thúc của lẽ sống tự nhiên được tăng thượng bởi nội tâm giàu chất liệu mới có thể gắng kết một cách trọn vẹn những hiện hữu lại với nhau. Đó là lí do tại sao Hoà thượng Nhất Hạnh cuối cuộc đời mong được trở về với đất mẹ để cho đôi chân gầy guộc của mình đã một đời hành cước khắp nơi, được tiếp xúc thêm một lần nữa với tình thương của hồn quê hương vô tận nuôi dưỡng trong mạch sống của mình. Một con người thân bịnh phải ngồi trên xe, thế nhưng khi Ngài chạm đôi bàn chân trên lòng đất mẹ đã thể hiện lên tất cả sức mạnh của sự vững chãi đầy thanh thoát từ sâu thẳm tâm thức kiên định. Một sự trở về không chỉ có giá trị său sắc mang nét đẹp văn hoá cội nguồn, mà còn chính là chuyến trở về thể nghiệm đủ cả nét đẹp văn hoá tâm linh với chính Ngài và cho tất cả chúng ta. Con người của văn hoá dân tộc được thể hiện  giản đơn như thế, thiền sư của văn hoá tâm linh giải thoát được thể hiện nhẹ nhàng trong việc làm mang ý nghĩa tinh tế là thế, chứ cần đâu những logo cố sức trang hoàng nhuệch nhoạc được gắng đâu đó khoe khoang mới thể hiện được những gì của giá trị. Thật xúc động cho ai được chứng kiến sự tiếp xúc diệu kì ấy giữa một nơi chứa đủ nội hàm của sức sống được thực hiện bởi một hiện hữu với những tương quan hình thành nên sự hiện hữu đó như hai năng lượng lạ thường biểu hiện trong một gắng kết. 

Trong nhiều kinh đức Phật dành nhiều lưu tâm khuyên các thầy Tỳ Kheo: "Này các Tỳ Kheo, các thầy hãy ra  đi mỗi người một ngã. Hãy vì sự tốt đẹp của nhiều người”. Đây đích thực là cách ra đi theo ý nghĩa trở về.  Và đọc qua kinh Du Hành, nói về hành trình nhiều tháng cuối cuộc đời của đức Phật, càng thấy hình ảnh đức Phật thân thương như thế nào qua những điều hết sức dung dị và đẹp biết bao trong ý nghĩa trên.

Ngoài 80 tuổi, đức Phật thực hiện một chuyến đi nhiều tháng với hành trình 13 xứ sở lớn nhỏ là điểm sáng tột cùng của cuộc đời Ngài. Trên suốt hành trình trải qua ấy , bao nhiêu khó khăn về hoàn cảnh và những biểu hiện giới hạn của báo thân nếu được liên tưởng thì đủ cả bao chướng ngại. Nếu đắn đo cho điều đó, chắc chắn hành trình lịch sử ấy không tô thêm nét đẹp cuộc đời đức Từ Phụ của chúng ta như lịch sử ghi nhận. Những đoạn kí sự ấy được ghi chép khá rõ trong nhiều tình huống xãy ra lúc bấy giờ trong kinh Du Hành.  Có khi đức Phật phải chịu khát vì A nan quan sát thấy: “Vừa rồi có năm trăm cỗ xe lội qua khúc trên sông làm nước đục cả. Chỉ có thể dùng rửa chân, không thể dùng uống được.” Có khi phải chịu đói vì ở những nơi hoang vu và thiếu thốn để thực hiện pháp khất thực, đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo: “Đất này đói kém, khất thực khó khăn, các ngươi nên chia thành từng nhóm, tùy theo chỗ quen biết, hãy đến Tỳ-xá-ly và nước Việt-kỳ mà an cư ở đó để có thể không bị thiếu thốn. Ta một mình cùng với A-nan an cư ở đây.”

Đức Phật thực hiện hành trình trong hoàn cảnh tuổi tác và sức khoẻ như thế chắc hẳn không phải vì mục đích thưởng ngoạn. Từ đầu duyên khởi của chuyến đi đối với Ngài là cả một sứ mệnh rất lớn là cứu vãn hai quốc gia Ma Kiệt Đà và Bạt Kỳ thoát nguy cơ chiến tranh. Và khi những gì cần làm đã được làm xong, sự tự tại dung dị của một nhà du khất vẫn mặt cho hiện tướng thân bịnh của tuổi xế chiều hành hạ, Ngài vẫn tựa chân dưới những gốc cây nơi rừng sâu để ngỉ ngơi phục hồi sức khoẻ rồi tiếp tục thực hiện cho hành trình tiếp theo. Thường tựa lưng dưới gốc cây, Đức Phật  bảo A-nan: “Ta đau lưng quá, hãy sửa chỗ ngồi.”

A-nan đáp: “Vâng”. Rồi dọn một chỗ ngồi. Như Lai nghỉ ngơi. A-nan lễ chân Phật, rồi ngồi sang một bên.

Chúng ta thấy rất rõ, đi đến xứ sở nào hình ảnh đức Phật ngồi dưới gốc cây hoặc Ba Lăng, hoặc Am bà bà lê ( Cây Xoài), hoặc cây Xà đầu, cây Sala….Đây là hình ảnh tiêu biểu của nét đẹp xuyên suốt cuộc đời một hành giả du phương hoàng đạo đúng nghĩa. Khi đến ngoài Thành Ba Lăng Phất đức Phật ngồi dưới gốc cây Ba lăng, những người dân của làng thấy Ngài liền đến đảnh lễ và xin cúng dường. Đặc biệt, sau khi đêm tàn buổi sớm, Ngài lại chọn nơi thanh vắng để ngồi trải nghiệm không gian nơi đây. Đến đâu đức Phật luôn thể hiện một nhà quan sát mọi vấn đề như tìm những điều kì diệu trong mọi sự hiện hữu để tuệ tri mọi thực tại như thật với chính nó. Một sự kiểm chứng không bỏ sót bất cứ một thực tại nào của bậc giải thoát hoàn toàn không còn sự tinh tế nào hơn. Ở đây sự kiểm chứng thực tại  về địa lí và những điều thâm bí được thực hiện cũng thường được đề cập từ nơi đức Phật với những nơi Ngài dừng chân chứ như nhà phong thuỷ học. Ngài phân tích rất chi tiết những điều tốt đẹp của địa thế nơi này thông qua cuộc trò chuyện với A Nan: “Người tạo ra thành này rất hợp ý trời. Lúc đêm đã tàn, trời vừa sáng, Ta đi tới chỗ thanh vắng, bằng thiên nhãn, xem thấy các Đại Thiên thần mỗi vị phong thủ đất đai nhà cửa riêng, các trung thần, hạ thần cũng phong thủ đất đai nhà cửa. A-nan! Nên biết chỗ đất đai nhà cửa nào được Đại Thiên thần phong thủ, ai ở đó tất được an lạc nhiều ; còn chỗ trung thần phong thủ thì hàng trung nhân ở; chỗ hạ thần phong thủ thì hạ nhân ở và công đức nhiều ít cũng tùy theo chỗ ở ấy.

“Này A-nan, chỗ này là chỗ hiền nhân ở, kẻ bán buôn qui tụ, phép nước đúng đắn không dối ngụy. Thành này rất tốt, được mọi nơi suy tôn, không thể phá hoại. Lâu về sau nếu có bị phá chăng chỉ do ba việc; một là bị nước lớn, hai là bị lửa lớn và ba là bị người trong thông mưu với người ngoài phá hoại được thành này.” -Tuệ Sỹ dịch 

Những bước chân Ngài dừng lại và đi qua đều lưu lại những giá trị rất đẹp trong lòng cho những ai được hạnh duyên gặp Ngài. Những dấu ấn tốt đẹp ấy còn lưu lại những gì mà hàng ngàn năm nay vẫn còn sinh động trong thế giới đầy biến động này. 

Bấy giờ, sau thời  pháp tại Ba Lăng Phất, Đức Thế Tôn liền rời khỏi chỗ, đại chúng hầu quanh đưa Ngài trở về. Đại thần Vũ-xá đi theo sau Phật, nghĩ rằng: "Hôm nay, nhân Đức Sa-môn Cù-đàm đi qua cửa thành này, ta hãy gọi cửa này là cửa Cù-đàm. Bến sông mà Phật sang ngang, được đặt tên chỗ đó là bến Cù-đàm."

Đức Thế Tôn ra khỏi thành Ba-lăng-phất, đi đến bờ sông. Lúc ấy, trên bờ sông có nhiều người, trong số đó có người thì dùng thuyền, có người dùng bè, có người dùng phà mà sang sông. Đức Thế Tôn cùng đại chúng chỉ trong khoảnh khắc, như lực sĩ co duỗi cánh tay, đã đến cả bên kia sông.

Và ý nghĩa vô cùng của chuyến đi này đã mở ra rất nhiều cuộc hội ngộ mang đầy ý nghĩa đẹp cả chủ thể hoàng pháp là chính đức Phật và đối tượng được giáo hoá trên hành trình Ngài đi qua.  Không bỏ sót lại bất cứ một ai dù là kỷ nữ hay một cụ già. Và một sự xác nhận rất chân thành như phai phá hết mọi trầm tích khi đánh giá về sự tác đông của vô thường với xác thân Ngài nhưng không chi phối được tinh thần giải thoát của một hành giả hoàn mãn hạnh nguyện.  "Ta nay đã già rồi, tuổi đã đến tám mươi rồi. Cũng như cỗ xe cũ kỹ, nhờ phương tiện tu sửa mà có thể đi đến nơi. Thân ta cũng vậy, nhờ sức phương tiện còn hơi duy trì được tuổi thọ, tự lực tinh tấn mà nhẫn chịu sự đau nhức này. Không suy niệm tất cả tưởng, khi nhập vô tưởng định, thân an ổn, không có não hoạn.

Thật sự "sức định, thân an ổn, không náo loạn" ấy nơi đức Phật được kiểm chứng rõ ràng nhất qua những lời di giáo được xem như bản di chúc bất hủ, một di sản tinh thần vô giá của những gì cho hạnh giải thoát được thực hiện giữa rừng sâu nơi đêm khuya thanh vắng, ngay trong giờ phút Ngài trở về với bản thể Chân Như. Chắc chắn đó chỉ có thể  từ một nhân cách sống đầy đủ sự chân thật, đầy đủ sự kiểm nghiệm về mọi giá trị , và đặc biệt tự thân giải thoát hoàn mãn mới thể hiện đủ ý nghĩa ra đi và trở về tuyệt đẹp đến như thế. 

 






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/12/2016(Xem: 8787)
Ngày cô gái chuẩn bị về nhà chồng, cô đến đảnh lễ Phật và xin đôi lời dạy bảo. Phật nói cô giữ gìn 2 điều: Một là, đừng mang lửa từ nhà ra ngoài và cũng đừng mang lửa từ ngoài vào nhà. Hai là phải luôn soi gương. Cô gái không hiểu, xin Phật dạy rõ.
18/12/2016(Xem: 6689)
Như thông lệ hằng năm, giữa tháng 12 là lúc thời điểm Pháp hội Puja of Merit Accumulation khai hội tu tập & cầu nguyện cho'' Thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc'' tại Bồ Đề Đạo Tràng. Nhân cơ duyên này, chúng tôi đã được quí vị pháp hữu, thiện hữu phát tâm cúng dường gieo duyên cùng Pháp hội và chư Đại tăng trong thời gian 1 tuẫn lễ pháp hội diễn ra. (Dec 15 to Dec 22-2016)
14/12/2016(Xem: 13936)
Bước vào thiên niên kỷ mới, trong mười năm của giai đoạn đầu tiên (2006-2016), Phật giáo đã khai dụng được nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối diện với lắm thách thức giữa một thế giới đầy biến động. ● Xin nhận diện một số cơ hội: Xu thế mà người dân trong hai lục địa Âu và Mỹ đón nhận Phật giáo vừa như một triết lý sống nhân bản, vừa như một khoa học trị liệu hiệu quả đã bước qua khỏi giai đoạn nghiên cứu kinh viện để lan tỏa ra trong nhiều lãnh vực ứng dụng thiết thực khác của đời sống. – Hiện tượng những tổ chức Phật giáo quốc gia đơn lẽ đang nhịp nhàng gia nhập vào các mạng lưới Phật giáo quốc tế đã trở nên chặt chẻ hơn. – Những công trình nghiên cứu và khảo sát kinh điển Phật pháp càng lúc càng nhiều và càng có phẩm chất nhờ ứng dụng công nghệ thông tin khi xử lý các văn bản. – Nghệ thuật và văn học Phật giáo được giới trí thức trên thế giới khám phá và xác nhận như một dòng chủ lưu đóng góp vào những giá trị nhân văn của nhân loại – …
12/12/2016(Xem: 7608)
Thưa bà, lâu nay ít thấy bà “xuất hiện” trên mặt báo, phải chăng bà đang có dự án mới? Tạ Thị Ngọc Thảo (TTNT): Đúng, hơn nửa năm nay tôi ít “xuất hiện” trên mặt báo là vì những đề tài tôi quan tâm, nghiên cứu và viết ra đã gởi thẳng đến “địa chỉ” nơi nhận. Và tôi cũng nhận được phản hồi tích cực, vì nơi gởi và nơi nhận cùng trăn trở một mối lo “sau khi du lịch biển và đánh bắt không còn là thế mạnh thì làm sao để chuyển đổi ngành nghề cho bà con các tỉnh miền Trung”? Rồi hai bên cùng bàn cách “làm như thế nào!”. Chúng ta đều biết, có những việc nhờ báo chí đưa duyên, nhưng có những việc làm trước nói sau; cho chắc (cười).
09/12/2016(Xem: 7658)
Các thiền sư Phật giáo luôn nhắc nhở các đệ tử không được phát khởi vọng niệm ham muốn (tham), cho dù đó là “ham muốn được thành Phật”; không được phát khởi vọng niệm sân hận, cho dù đó là “sân hận người đã giết cha của mình”; không được phát khởi vọng niệm si mê (si), tin tưởng một cách mù quáng, cho dù đó là “tin tưởng vị thầy của mình”. Thamsân-si là ba chất độc gây đau khổ cho bản thân của chính mình và cho người khác. Trong cuộc sống hàng ngày, người Phật tử cũng còn phải thực tập để làm ngược trở lại những tiến trình của “tham-sân-si”. Thí dụ: Muốn tránh tánh tham lam (lấy vào), thì phải thực tập bố thí (cho ra); Muốn tránh “thù hận”, thì phải thực tập “hiểu và thương” bằng việc làm từ thiện; muốn tránh “si mê”, thì phải thực tập hơi thở chánh niệm, ý thức về lời nó
09/12/2016(Xem: 7288)
"Hoằng pháp thị gia vụ" đó là câu nằm lòng cho những trưởng tử Như Lai, khi bước chân vào đời. Mọi việc qua bốn oai nghi đều mang trọng trách: "Tác Như Lai sứ". Và khi hành động bất cứ việc gì cũng đều là việc Phật: "Hành Như Lai sự". Qua 35 năm thành hình một tổ chức Phật giáo thống nhất ba miền với các hệ phái, Phật sự từ đó cũng được đáp ứng tùy từng giai đoạn. Mỗi hệ phái, tông phong cũng được duy trì và phát triển chung với sự phát triển của Giáo Hội.
03/12/2016(Xem: 6009)
Cộng đồng Phật giáo chỉ là một nhóm thiểu số tại Cuba. Dù vậy, họ vẫn đang có những bước đi lặng lẽ thơ mộng và trang nghiêmtại đảo quốc xinh đẹp này. Và cũng kỳ lạ, Omar Perez, một nhà thơ và là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Cuba – con trai của lãnh tụ du kích Che Guevara – đã trở thành một tu sĩ Thiền Tông.
03/12/2016(Xem: 6610)
Một năm lại sắp trôi qua với những vết tích điêu tàn, khổ nạn để lại trên khắp trái đất. Nhìn lại, chúng ta không khỏi giật mình, và chạnh lòng thương tưởng những nạn nhân từ các thảm họa của thiên nhiên, hoặc của con người gây nên. Có ai đã được gì sau chiến tranh và thiên tai? Có ai được hả hê sung sướng trên những bệnh tật, đói lạnh, xác người chết cứng, và nước mắt khổ đau của những kẻ sống còn sau một cơn hồng thủy, động đất, giông bão… hay sau một vụ oanh kích, nổ bom tự sát…?
09/11/2016(Xem: 11376)
Bài viết này [“Biểu nhất lảm Tam Tạng Kinh Điển Phật giáo” (An Overview of the Buddhist Tripataka)] nhằm cung cấp một cái nhìn duyệt qua kho tàng Kinh điển Phật giáo từ ngày Đức Phật Thích-ca Mâu-ni [khoảng 560 – 480 trước Công Nguyên (tr. CN)] còn tại thế cho đến ngày nay. Đạo Phật đã có một lịch sử trên 2.500 năm.
06/11/2016(Xem: 7295)
Lần nọ của nawm xưa, chúng tôi tham gia 1 khóa tu tại Packchong, Thái Lan. Theo quy định của bất cứ khóa tu nào, nam ở riêng và nữ ở riêng, bất kể là vợ chồng hay mẹ con. Tôi ở cùng 1 người đàn ông phương tây trong 1 căn phòng cho khoảng hơn chục Phật tử. Người đàn ông này khá ít nói, rất nhẹ nhàng, tham gia nghiêm túc các thời khóa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]