Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân cách và Tâm thức

27/09/201718:38(Xem: 6362)
Nhân cách và Tâm thức

Duc The Ton 12

NHÂN CÁCH VÀ TÂM THỨC


Nhân cách là vấn đề cơ bản của "tâm lý học"; khoa tâm lý cho rằng nhân cách được hình thành bởi 3 yếu tố: -xã hội, sinh học và tâm lý. Con người là một động vật tự hữu về hoạt động, một phần chịu ảnh hưởng bởi giáo dục, bởi cộng đồng xã hội và cuộc sống chung quanh. Ngoài vấn đề nhận thức tiếp thu từ ngoại cảnh, ý thức tự thân còn chịu ảnh hưởng không nhỏ về tập khí mà nhà Phật gọi là hạt giống tiềm ẩn trong tâm thức. Điều này tạo nên sắc thái cá biệt từ ý thức đến nhân cách. Nhân cách có thể thay đổi tùy hoàn cảnh, tuổi tác và sự cố.

 

1. Nhân cách: "Là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người". Hiểu như thế chỉ xét về mặt hiện tượng. Nếu hiểu nhân cách phát xuất từ bản chất, một phần chịu ảnh hưởng từ bản chất, thì nó không chỉ thuộc "tâm lý cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người" mà còn là ảnh hưởng đến nguyên tố tập khí được huân tập nhiều đời. Ví dụ, trẻ con sinh ra, chưa ảnh hưởng "bản sắc và giá trị xã hội", nó có thể biểu hiện giận dữ, la hét, triếu mến, ghét bỏ khi có nhu câu đói khát, ẳm bồng...Bản chất hung tợn hay dịu dàng đó cũng đã thể hiện bản tính của đứa trẻ vừa chào đời; bản chất là một phần nói lên tổng thể tạo thành nhân cách

2. Nhân cách: là một tổng thể liên kết bởi giữa khả năng và đức hạnh, ý thức và phẩm chất. Một khi ý thức và đức hạnh vượt trội thì nhân cách có khuynh hướng hoàn chỉnh. Do đó, giáo dục là môi trường tác động đến ý thức và phẩm chất đưa đến hoàn thiện.

Ngoài môi trường giao tiếp, môi trường giáo dục, ý thức nhân phẩm, đôi khi nhân cách được thay đổi bởi những tai nạn, bệnh lý, giải phẩu hay các tác nhân ảnh hưởng đến não bộ. Thường xuyên ảnh hưởng phim ảnh bạo lực hoặc tình cảm, nhân cách cũng có khuynh huớng chịu ảnh hưởng phần nào về môi trường đó.Yếu tố gen di truyền ảnh hưởng mạnh khi tuổi chưa đủ phát triển, và ảnh hưởng một phần về nhân cách khi đã hội nhập tạp tính với môi trường sống.

Một sinh thể được huân tập hạt giống mạnh về đạo đức, gặp môi trường tín ngưỡng, tâm linh sẽ dễ hội nhập và kich thích đức tin; cũng thế, tập khí bất thiện mạnh thì dễ tăng trưởng tội ác khi gặp môi trường bất thiện. Khi hạt giống bất thiện gặp môi trường thiện lành, hạt giống bất thiện không có điều kiện sanh sôi nẩy nở thì môi trường thiện lành cũng hạn chế được phần nào sự tăng trưởng của hạt giống bất thiện.Do vậy, hình thành nhân cách được thể hiện trong môi trường nhất định.

Môi trường sinh hoạt góp phần đáng kể để điều chỉnh nhân cách, các tổ chức hội đoàn, tôn giáo, nghiệp vụ...thường xuyên tập họp nhân sự để truyền đạt kiến thức tạo thành một nhân cách theo khuynh hướng riêng.Một cán bộ chính trị luôn thể hiện một nhân cách bản lãnh và linh hoạt tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng. Lãnh tụ chính trụ có một phong cách lôi cuốn quần chúng.Một lãnh đạo tôn giáo luôn truyền đạt giáo lý, giáo điều để tăng trưởng đức tin về một đấng tối cao. Ngoại trừ Phật giáo, giúp cho tín đồ trở nên hoàn thiện chính bản thân, có một nhân cách nghiêm túc, thánh thiện, từ bi đủ tạo niềm tin cho tha nhân trong cuộc sống thực tại. Là một hành giả, Phật giáo giúp một con đường hóa giải nghiệp thức, thánh hóa tự thân, vượt thoát mọi cám dỗ ràng buộc của đời thường, làm chủ chính mình mà không lệ thuộc vào tha lực siêu thực.

3.Tâm thức: "Trí tuệ, tâm trí và tiềm thức là ba chiều của không gian tâm thức". Sự vận hành của tâm thức tức là sự vận hành cùng lúc của trí tuệ, tiềm thức và tâm trí. Trong tiềm thức có cả bản năng và trực giác trong trạng thái vô thức. Bản năng là chủng tử tự nhiên được tích lũy sâu kín trong tiềm thức. Tâm thức được phát triển, theo phạm trù tâm linh là trí tuệ phát triển cùng lúc vắng bóng kiến thức và khai mở tiềm thức.

Các nhà khoa học, Ông Francis Grick giai đoạn đầu ông ta quan niệm tâm thức nằm ở những neurones, lớp sâu thứ năm của vỏ não, nhưng sau đó, ông đồng quan điểm của Phật giáo cùng những đồng nghiệp là khi ngũ căn tiếp xúc ngũ trần, có tác động của ý thức thì tâm thức bắt đầu hoạt động.Theo khoa học, tâm thức nằm tại trung khu thần kinh, như hạt đậu nằm góc vuông từ đỉnh đầu thằng xuống tiếp giáp với điểm hai chân mày chạy thẳng vào não. Nhưng khi giải phẩu thì đó chỉ là trung tâm hoạt động của não bộ mà không tìm thấy hình dạng nào của "tâm thức". Đồng thời tâm thức vẫn luân lưu để duy trì sự tồn tại tự thể  khi căntrần không giao tiếp  nhau, nghĩa là tâm thức vẫn không hề gián đoạn, nó tự khởi hiện những chủng tử từng được huân tập. Ví dụ nhớ lại quá khứ, hình ảnh cố nhân tái hiện trong tâm tưởng. Mặc dù "hằng chuyển như bộc lưu" nhưng tâm thức vẫn kinh qua bốn trạng thái: cảm thọ - tri giác - hành động và nhận thức. Bốn trạng thái của tâm thức là hạt giống  chuyển vào A lại da thức. Hoạt động độc lập của tri thức là tư duy, tư duy có hai khía cạnh tà niệm và chánh niệm. Tà niệm mang tính tiêu cực (tà nghiệp) và chánh niệm mang tính tích cực (chánh nghiệp). Để thanh lọc và định hướng tư duy, toàn bộ giáo lý nhà Phật đều là những phương cách điều hướng con người gieo chủng tử chánh nghiệp. Pháp cú, phẩm "không phóng dật" Phật dạy:

Chớ sống đời phóng dật - chớ mê say dục lạc - không phóng dật, Thiền định - Đạt được an lạc lớn.

Bởi theo Duy thức: - Do nhất thiết chủng thức - như thị như thị biến - dĩ triển chuyển lực cố - bỉ bỉ phân biệt sanh. Do tâm thức luân biến nên một bậc Alahan phải: Thị vô phú vô ký - Xúc đẳng diệc như thị - Hằng chuyển như bộc lưu - A La Hán vị xả.

Thánh nhân từng bảo: tư tưởng thể hiện ra bản chất và hành động, tư tưởng thế nào thì con người như thế ấy. Do vậy, một tội phạm luôn nung nấu những ý tưởng tà tâm. Một hành giả hướng đến con đường giải thoát, luôn duy trì miên mật một chánh niệm qua pháp hành. Người bình thường, không là tội phạm, cũng không là hành giả thánh thiện, tư tưởng luôn chuyển biến như dòng thác chảy lẫn lộn thiện ác, xấu tốt, đó là lý do trầm luân miên viễn.

Một phật tử đã chấp nhận mình là con Phật, đi theo đạo lộ Phật dẫn dắt thoát khỏi sanh tử luân hồi, chánh niệm và pháp hành luôn là hành trang chuẩn bị ngay kiếp hiện tại để khi xả báo thân sẽ là con đường sáng của tuệ giác thoát khỏi trầm luân.

Nhân cách  và tâm thức, tuy hai nhưng là một. Tâm lý học, phân tâm học, xoay quanh hiện tượng tâm lý để tìm mấu chốt cho định giá nhân cách, nhưng vẫn lúng túng khi giòng chảy tâm thức như thác đổ. Duy thức đã chỉ cho thấy:Do giả thuyết ngã pháp - hữu chủng chủng tướng chuyển - Bỉ y thức sở biến - thử năng biến duy tam.

Mấu chốt mọi hiện tượng chấp ngã chấp pháp mà mọi sự phát sanh, giải quyết mắt xích cơ bản của tâm thức thì bản chất nhân cách sẽ hiển lộ.

 

MINH MẪN

27/9/2017

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6926)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4317)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9153)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5487)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5117)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5710)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6204)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5218)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]