Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trả Nợ Hay Hiến Dâng

26/08/201722:17(Xem: 5550)
Trả Nợ Hay Hiến Dâng
TRẢ NỢ HAY HIẾN DÂNG
Pháp Thoại Tại Chùa Xá Lợi Ngày 03-10-2006

Sáng nay tình cờ nhìn lên tấm lịch trên tường, tôi thấy một câu thư pháp bằng chữ Việt ghi: "Hai mươi năm xin trả nợ đời".

"Hai mươi năm xin trả nợ đời" nghe sao thật ngậm ngùi! Chợt lòng tự hỏi chúng ta sống ở đây là đang trả nợ hay đang sống một đời hạnh phúc? Chúng ta có thể cho mình đang trả nợ, và cũng có người nói rằng tôi đang sống trong hạnh phúc.

Dù sống trong hạnh phúc hay khổ đau, lúc chiêm nghiệm lại cuộc đời, ba, bốn mươi năm trôi qua, ta thấy mình nợ nhân gian nhiều quá. Cho nên dù đang sống trong cao sang, danh vọnguy quyền tột đỉnh, ta cũng cảm thấy mình đang trả nợ. Trả nợ đời, trả nợ người, trả nợ tình, trả nợ cháu con... Tuy nhiên tùy theocách nhìn và quan niệm về đời sống mà ta có thể xem đó là nợ nần hay là dâng hiến. Và một câu hỏi được đặt ra: Người tu có trả nợ không?

Cách đây nhiều năm, trong bài diễn văn đọc tại buổi lễ khai mạc một khóa tu ở Việt Nam của hòa thượng Thanh Từ, tôi nhớ có câu: "Tôi tự xem mình là kẻ nợ của tăng niTăng ni nào biết đòi thì tôi trả, ai không biết đòi thì tôi không trả". "Biết đòi" là thế nào? Nghĩa là biết đến với ngài, nương vào những điều ngài dạy để tu tập, để nuôi dưỡng tuệ mạng của mình. Đó là biết đòi. Người nào không biết đòi thì ngài không trả, nghĩa là người nào quay lưng lại, không đến với ngài thì ngài không thể trả nợ được.

Nếu nhìn vào đời sống của quý thầy, quý cô ở trên đất Mỹ hay ở tại Việt Namchúng ta thấy họ đều có chung một con đường lo lắngnỗ lựcvất vả để trả nợ hay trả ơnTrả ơn gì? Trả ơn áo cơm của đàn nathí chủơn nghĩa sinh thành của cha mẹ, ơn truyền thống tâm linh mà đức Phật đã dày công gầy dựng, ơn tổ, ơn thầy...

Người tu phần lớn đều sống cuộc đời "an bần thủ đạo", ba y một bát thong dong, ấy vậy mà hiện nay chúng ta thấy quý thầy, quý cô, nhất là những vị trụ trì, luôn phải cố gắng, nhẫn nại, cực khổvô cùng. Các vị ấy vất vả, bận rộn, làm biết bao nhiêu chuyện chắc chắn không phải để truyền sự nghiệp lại cho người thân, anh em ruột thịt của mình. Họ đầu tư công sức, lo lắng nhiều cho việc phát triển tự viện chính là tạo cho các thế hệ tương lai có nơi chốn học hànhtu tập. Dường như các thầy, các cô ở đâu cũng đi chung một con đường như thế.

Đôi khi chúng ta phiền trách việc xây cất chùa viện quá lớn làm hao tốn nhiều tiền của, công sức... Nhưng nếu nhìn sâu hơn ta mới hiểu "kiếp tằm nên phải rút ruột trả nợ dâu", từ bậc hòa thượng lớn cho đến vị thầy tu nhỏ đều có chung một ý hướng như vậy. Nghĩa là muốn đem hết sức mình trong cuộc sống hiện tạithực hiện những điều tiện ích làm quà tặng cho thế hệ kế thừa, và cũng có thể hoằng dương giáo pháp của đức PhậtPhải chăng chúng ta là những người đang trả nợ tình cho nhau? Người ở ngoài đời trả nợ tình khác với người ở trong đạo. Người tu trả nợ tình là trả nợ đàn na thì chủ, nợ tổ, nợ thầy. Xa hơn nữa là tâm nguyện gửi lòng mình trả ơn đức Phật - người đã gầy dựng nên dòng chảy tuệ giác mà ta được thừa hưởng và tu tập ngày hôm nay.

Ngày còn ở quê nhà, có lần tôi được một người Indonesia gốc Trung Hoa, chủ hảng Fuji Film mời đến thuyết giảng về Tam quiNgũ giới cho một số công nhân làm việc tại đó. Sau thời thuyết giảng, anh ngỏ ý mời tôi qua đảo Ga-lăng hay Pi-đông (ở Phi Luật Tân) đặt viên đá xây chùa. Tôi cười nói: "Anh là người ngoại quốc tại sao lại có ý xây dựng chùa Phật giáo (Việt Nam) ở một hòn đảo hoang vắng, xa tít mù, không liên hệ gì đến anh như thế?" Anh trả lời: "Thưa thầy, con có một phát nguyện là nơi nào có hình bóng đức Thế Tôn, nơi nào có tự viện dù lớn hay nhỏ con đều muốn tôn tạo để nơi đó trở thànhchứng tích của đạo Phật".

Lòng nhiệt thành, mối quan tâm đối với đạo Phật của một người Indonesia sống trên một đất nước Hồi giáo không liên hệ gì đến người Việt đã biểu lộ anh là một con người có văn hóa, có một tâm thức thiện lành thật dễ thương. Người xưa thường dạy rằng phát tâm xây dựng già lamtự viện thì công đức vô lượngCông đức này chắc chắn dẫn đến một đời sống phúc lộc đầy đủ, kiếp lai sinh có thể được làm quốc vương.

Ta có thể nói nơi nào ngôi chùa Việt Nam có mặt là biểu hiện văn hóa Việt Nam có mặt. Người Việt đặt chân lên vùng đất này quy tụ lại thành cộng đồng. Niềm tự hào của chúng ta không chỉ là sự phấn đấu hội nhập được vào cộng đồng của bản địa để thành đạt sự nghiệp vật chất hay xã hội như những người di đân khác, mà chúng ta còn tự hào mình là người Việt có một nền đạo đứcvăn hóa trên bốn ngàn năm rất đặc sắc và nền đạo đứcvăn hóa ấy đã nuôi dưỡng bản chất con người Việt Nam qua bao thế hệ. Hai nghìn năm trở lại đây, chúng ta đã được thấm nhuần giáo lý đạo PhậtĐạo Phật đã có những đóng góp rất lớn vào nền văn hóa Việt, từ ngôn ngữ sử dụng hàng ngày cho đến cách hành xử của chúng ta đều phảng phất tinh thần đạo Phật. Do vậy người Phật tử Việt Nam đi đến bất cứ nơi nào cũng quan tâm đến việc xây cho được một ngôi chùa là điều tự nhiên:

Mái chùa che chở  hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông
    .
Hai câu thơ của nhà thơ Huyền Không cho ta thấy rõ gốc rễ, nguồn cội của chúng ta. Ta cần phục hồi lại gốc rễ vô minh của mình. Gốc rễ của mình là người Việt với văn hóa Việt. Dù cho ở đâu hay theo một tôn giáo nào ta vẫn không thể chối bỏ được gốc rễ Việt Nam của mình. Ta không thể để mình biến mất vào dòng chảy của xã hội người, đất nước người, vì chúng ta vẫn là dân da vàng. Ví dụ như ở Mỹ chẳng hạn, chắc gì người Mỹ chấp nhận ta là dân Mỹ thực sự (có vào quốc tịch Mỹ thì chúng ta là người Mỹ gốc Việt). Người Mỹ dù đang được thụ hưởng một nền văn minh tiến bộ nhất hành tinh, nhưng mầm mống kỳ thị vẫn nằm sâu trong tâm thức họ.

Bởi vậy, tự thân chúng ta chưa bắc được nhịp cầu cảm thông, chưa hòa nhập thực sự vào dòng sinh hoạt của xã hội Mỹ thì chùa chiền, tự viện là nơi hay nhất dẫn dắt ta đến gần đời sống tâm linh, nhất là cho giới trẻ. Hiện nay thế hệ trẻ người Việt tại Mỹ chưa thấm nhuần văn hóa Việt, và nếu có cũng rất ít, trong khi ảnh hưởng văn hóa Mỹ lại rất sâu đậm. Làm sao ta có thể trông cậy vào các cháu trong sự bảo tồn cũng như hãnh diện với di sản văn hóa Việt Nam? Những người già rồi sẽ ra đi, nên việc giữ gìn, phát huy văn hóa Việt Nam là ở thế hệ tương lai. Chúng ta phải làm thế nào để tạo nhịp cầu nối giữa hai thế hệ, tạo điều kiện để có sự gần gũi, hòa thuận trong nếp sống của một gia đình Việt. Hãy gieo vào tâm thức các con cháu ta hạt giống hiền thiện, yêu thương ngay từ khi tâm hồn còn thơ dại. Nếu chưa thể làm cho các cháu thấm nhuần đạo Phật, thì ít nhất ta hãy tập cho chúng đến gần với không khí của tự viện, chỉ dạy chúng cách thực hành những điều căn bản của đạo Phật trong đời sống hàng ngày. Các bậc phụ huynh có bổn phận và trách nhiệm truyền trao tinh thần tu họctinh thần dân tộc cho con em mình. Đừng nghĩ những hạt mầm mình gieo là vô ích. Một mai kia bước vào đời gặp phải những khó khăn, vấp ngã, chúng sẽ nhớ đến những gì đã được chỉ dạy, nhớ đến giáo lý đạo Phật đã từng được nghe, nhớ về mái chùa ngày nào..., và sẽ tự tìm về nguồn cội của chúng.

Để giới trẻ cảm thấy vui thíchthoải mái khi đến chùa, chúng ta cần có những sinh hoạt riêng cho họ tùy theo trình độ, tuổi tác. Ngoài ra ta cần đơn giản các mặt nghi lễthờ cúngbái sámtụng niệm... Ta không thể áp dụng một cách nguyên chất hình thức sinh hoạt theo truyền thống Phật giáo Việt Nam trên đất nước này, vì như vậy tầng lớp thanh thiếu niên trẻ cảm thấy không thích hợp rồi trở nên dị ứng và sẽ rời xa. Và nếu các sinh hoạt cũng như giảng dạy Phật pháp chỉ tập trung đáp ứng cho những người già, những người lớn tuổi là chúng ta đẫ không nhìn xa vào thế hệ trẻ - thế hệ của tương lai và vô tình đẩy chúng tìm đến con đường hướng ngoại.

Chúng ta cần mạnh dạn và khéo léo để thay chuyển mình. Không thể có một "đạo Phật riêng" cho người Việt Nam trên đất Mỹ. Đạo Phật đi đến đâu là đều phải chuyển mình thích nghi với môi trường địa lý, hoàn cảnh văn hóa và tập tục của địa phương. Khi chuyển đổi được như thế thì đạo Phật mới thực sự có mặt và đóng góp những lợi ích lớn lao cho cộng đồng người bản địa và cộng đồng người Việt tiếp nốitrong tương lai. Điều này trong quá khứ đạo Phật đã làm được. Điển hình là đạo Phật ở Trung Hoa.

Du nhập vào Trung Hoa theo dòng chảy của sự phát triển, đạo Phật đã hoàn toàn hòa mình vào văn hóanếp sống, lối suy nghĩ cho đến mọi hình thái nghệ thuật của người Trung Hoa. và rồi đạo Phật bám rễ vững chắc vào vùng đất mới, hình thành một đạo Phật Trung Hoa thật đặc biệt. Có lẽ khi nào chúng ta đến sinh sống nơi đây với gốc rễ bốn ngàn năm văn hiến, với hạt mầm đạo Phật thật sâu dày, chúng ta không làm được một điều gì để trả nợ hay hiến dâng cho người một tặng phẩm.
Chúng ta hãnh diện về người Việt sống trên đất Mỹ đã đóng góp ít nhiều cho thành tựu trên mọi lãnh vực từ khoa học, kỹ thuật, giáo dục...; điều đó cho thấy không phải chúng ta đến đây chỉ vì miếng cơm, manh áo. Điều quan trọng nhất của chúng ta là làm thế nào để cho người bản xứ hiểu được chúng tamuốn hiến tặng tinh thần đạo đức Đông phương và tuệ giác của đạo Phật cho họ. Làm được điều này là chúng ta không đánh mất gốc rễ, không "biến" thành người Mỹ. Chúng ta có thể vững chãi tự tin không che dấu nguồn gốc của mình. Chúng ta có thể đứng ngang hàng hoặc trực tiếp đối thoại với người, vì mình vốn có một nền tảng văn hóa đặc trưng, một bản chất thấm nhuần đạo đức và một cội nguồn tâm linh là giáo lý đạo Phật.
Thiết lập nền tảng tâm linh, đem đạo đức của xã hội Đông phương củng cố đời sống gia đình cho xã hộiTây phương là chúng ta đang trả ơn, đang dâng hiến cho đất nước đã cưu mang mình một món quà quý giá, bởi đó là những gì họ đang thiếu, mặc dù đời sống văn minh vật chất của họ dư thừa. Thế nên, sự có mặt của các sinh hoạt chùa chiền, tự viện mang nét đặc thù văn hóa Việt Nam là rất quan trọng. Ta cần làm cho đạo Phật có mặt, làm sao cho thế hệ trẻ người Việt và người Mỹ có được niềm tin sâu chắc với chánh pháp, làm sao cho họ biết thực tập để nếm được an lạchạnh phúc chân thật. Được như vậy chắc chắn gốc rễ đạo Phật sẽ bám sâu vào lòng đất Tây phương.

Hạnh phúc của chúng ta không chỉ là làm ra tiền, có tài sản lớn. Chúng ta cần có những người con kế thừa thông minh, tài giỏi và đạo đứcHạnh phúc gia đình có mặt chính là nhờ sự quan tâm của chúng tađến với người thân, ta cần dành thêm thì giờ chăm sóc con cháu để tương lai đi vào đời chúng không mang theo mặc cảm thua kém, sợ sệt. Vị ngọt của hạnh phúc cũng chính là sự san sẻ. Nói một lời dễ thươngchịu khó lắng nghe, ấy là sự tu tập gần nhất và ai cũng có thể làm được. Trong gia đìnhchúng ta có thể hiện sự kiên nhẫn của mình khi dạy các con hay không? Thông thường cha mẹ chỉ thương những đứa con hiền, ngoan, dễ dạy; những đứa trái ý mình, tìm mọi cách dẫn giải lý do này nọ để đối kháng thì mình không thương nhiều. Do vậy, chúng ta cần nhìn lại cách nuôi dạy con cái và cách ta hành xử với người thân. Đôi khi, tuy ta sống với nhau bằng tình thân, nhưng vẫn hay tranh chấp, kèn cựa, đôi lúc chỉ một lời nói nặng cũng đủ làm cho người khác đau khổ rồi. Chúng ta đã từng làm như thế và người kia cũng vậy. Cuối cùng chỉ đưa đến buồn khổ, giận hờn. không muốn nhìn mặt nhau. Những lúc như vậy, chúng ta hãy lập tức quay nhìn lại tự mình để tập chế phục tâm hành tiêu cựcchế phụccơn giận.

Khi cơn giận bừng lên, chúng ta có thể làm một việc giản dị là không nói gì cả, đi vào phòng và đóng cửa lại. Khi ngồi yên được để quan sát tâm hành của mình, ta sẽ thấy lửa giận đang bừng cháy, tim đập rất nhanh, hơi thở nặng nề, mệt mỏi và tâm thức đầy xao động bất an. Ta hãy thầm nhủ: "Tội nghiệp mình quá! Giận là tự sát". Và hình như cơn giận bắt đầu dịu xuống... Đó là phương pháp điều phục cơn giậnĐiều phục được cơn giận là điều phục được nỗi buồnđiều phục được mọi cảm thọ. Xét cho cùng, giận chỉ là một cảm thọ của tâm, mà ta là người nhận biết, là người đang quan sát cơn giận. Nếu có một chút kinh nghiệm tu tập, ta sẽ nhận rõ sự giận hờn có cùng một nhịp điệu vận hành như thiên nhiênvũ trụ; nó cũng thành, trụ, hoại, không, như cây cỏ nẩy mầm, ra lá cho hoa kết trái rồi úa tàn, rơi rụng.

Tôi xin kể một kinh nghiệm điều phục cơn giận, và đây cũng là câu chuyện vui. Trong chùa tôi vào mùa hè, có một bà cụ hay trồng bắp cho chùa. Khi bắp có trái thì ai muốn ăn cũng được; không hỏi, không mời bà một tiếng nào mà bà vẫn cười rất tươi. Tâm bà tốt vô cùng. Nhưng một hôm, ni sư trụ trì, vốn là con gái của bà, vô tình dẫm chết mấy cây ớt bà trồng trên vuông đất nhỏ dưới tàng cây cà phê. Thế là bà càu nhàu từ chiều đến tối, kể lể đủ thứ chuyện, rằng mảnh đất do bà mua, toàn bộ nay không thuộc về bà nữa, bà chỉ còn chút rẻo đất để trồng ớt mà cũng bị dẫm chết... Ai nghe cũng cảm thấy khó chịu. Tôi nghĩ chắc bà sẽ nói đến khuya nếu không làm cho bà im tiếng. Tôi liền bảo: "Tôi có trồng ít cà phê trong chùa, nếu bà cần đất rộng thì tôi chặt hết cà phê để trả lại đất cho bà. Vậy bà khỏi rầy rà nữa nhé". Nói là làm liền. Tôi lấy cưa ra cưa hết mấy cây cà phê. Bà hốt hoảng: "Thôi, tôi lạy ông, tôi không nói nữa, tôi không nói nữa".

Sáng hôm sau, tôi được nghe bà tâm sự với ni sư con gái của bà là "Ông thầy này nóng còn hơn lửa. Người tu hành gì mà sân si quá! Mới nghe cằn nhằn mấy tiếng mà ngay tối hôm qua ổng chặt trụi mấy cây cà phê".

Đôi khi có những chuyện lớn như con voi mà ta vẫn nhịn được, nhưng có khi lại nổi cơn giận với một việc rất nhỏ như trường hợp của bà cụ mà tôi vừa kể. Có những chuyện nhỏ nhoi không đáng gì, thế mà ta cực lòng lo nghĩ, tính toán đủ thứ rồi giận hờn không đâu. Bài học từ bà cụ nói trên có thể giúp ta quy chiếu lại tự hỏi mình: Có phải ta đã từng làm như vậy? Nếu ta có khả năng buông bỏ mọi việc trên đời thì bất cứ điều gì xảy đến cũng sẽ qua đi rất nhẹ nhàng, việc lớn có thể chuyển thành nhỏ và việc nhỏ trở thành không có gì. Ở đây có một điều ta cần nhớ: giận chỉ là một trong những cảm thọ của tâm. Ta thường lầm lẫn xem cảm thọ là mình, lầm lẫn này tuy nhỏ nhưng mang đến tác hại rất lớn, bởi vì nó sẽ dẫn dắt hành xử của ta dựa vào cảm thọ đó.

Xét cho một cách thấu đáo, vạn vật từ tài sản, nhà cửa, xe cộ thuộc sở hữu của con ngườicho đến cỏ cây, đất đá, cầm thú, côn trùng... trong thế giới tự nhiên, tất cả đều đi theo con đường sinh, trụ, dị, diệt và cái gần nhất là thân ta cũng đi theo một tiến trình như vậy. Mặc cho chúng ta có chăm sóc thân thểthật kỹ bằng những phương tiện y học hiện đại thì tóc cũng sẽ đổi màu, da sẽ không còn tươi nhuận, sức khỏe ngày càng suy giảm. Ngành y khoa thẩm mỹ dù tiến bộ đến đâu cũng không giữ cho con người được trẻ mãi, cũng không đem đến cho chúng ta đời sống bất tận.

Bước vào sâu hơn nữa, vui buồn, khổ đau, hờn giận... cũng chỉ là những sở hữu của ta. Tại sao gọi là sở hữu của ta mà không phải là ta? Thử nhìn kỹ lại ta, sẽ thấy những vui, buồn chợt đến rồi đi; những sầu khổbất an hay hân hoanhạnh phúc cũng chẳng ở lâu với chúng ta bao giờ. Ai mà không muốn giữ lại niềm vui dài lâu cho mình? Thế nhưng trong niềm vui đã cài sẵn nỗi buồn và có hạnh phúc nào mà không thấp thoáng bóng dáng sầu khổ bên trong. Vậy cái gì gọi là thật? Cái gì là ta?

"Quay về nương tựa Phật" là quay về nương tựa nguồn tuệ giác nơi chính mình; chúng ta nguyện quay về làm phát khởi tâm Bồ đề, làm tỏa sáng tâm Phật của mình. Cái gì là tâm Phật tỏa sáng của mình? Xin lấy ví dụ, khi mình giận, thì giận là cảm thọ đến đi, sinh diệt. Nhưng khi nhận biết ta đang giận thì cái "nhận biết" cơn giận đó không đến đi, không sinh diệt. Nó vẫn thường hằng, vẫn luôn có mặt. Sự nhận biết này có hai bước để ta thấu hiểu và thực tập. Thông thường, lúc đầu ta nhận biết bằng tiếng nói của ý thức: "Đây là cơn giận có mặt"; và sự nhận biết này có tiếng nói thì thầm. Nhưng khi thực tập quán chiếu đã quen, ta không cần nói thầm nữa. Khi cơn giận biểu hiện, ta chỉ cần hồi tâm nhận biết cơn giậnđang có mặt, tức khắc cơn giận là cái bị ta nhận diện. Và ta lúc đó chính là năng lượng tỉnh sáng, nhận biết cơn giận ngay hiện tại, chứ không phải là cơn giận. Khả năng nhận biết không lời ấy là năng lượnggiác ngộ vốn có bên trong mà lâu nay mình bỏ quên. Vì quên nên ta thấy mình là cơn giận, là nỗi bất an... và thương ngập lặn, nổi trôi theo dòng sông cảm thọ. Nếu thực tập sâu sắc, luôn nhớ mình là người đứng trên bờ nhận diện mọi tâm hànhcảm thọ đang diễn hành, đến đi liên tục là ta cắt được dòng chảy sinh tử luân hồi và lúc nào cũng an trú trong vùng trời "tâm bản nhiên" của chính ta. Chúng tatu tập là mời gọi năng lượng chánh niệm biểu hiện ra để biết dừng lại. Nếu biết thực tập dừng lại quán chiếu trong khi nói, khi làm, chắc chắn đời sống chúng ta sẽ thể hiện được phẩm chất thanh cao, an bình; tạo được môi trường đẹp đẽ để nuôi dưỡng người thân của mình và mọi người chung quanh.

Sống như vậy, người ta "hai mươi năm xin trả nợ đời", còn mình dù có bốn mươi hay năm mươi năm trên đời cũng không phải trả nợ gì. Bởi vì đời sống chúng ta một khi biết sống và tu tập sâu sắc, đó chính là tặng phẩm ta dâng cho đời, cho người và cho nhiều thế hệ tương lai. Mỗi ngày chúng ta trong đời sống là một sự hiến dâng. Nguyên tắc là muốn tặng quà thì phải có quà mình mới tặng được, trong lòng có tình thương, mình mới tặng cho người món quà tình thương, lòng có an vui mới tặng được an vui cho người. Cho nên khi cùng thực hiện một việc, cùng tiêu tốn năng lượng và thời gian như nhau, nếu làm với tâm thức trả nợ thì ta sẽ cảm thấy mệt mỏi, nặng nề, chán nản, phiền muộnbất an; nhưng với tâm nguyện hiến dâng, phục vụ thì lòng mình sẽ thênh thang, an vui và hạnh phúc. Nếu ta quan niệm như câu hát "hai mươi năm xin trả nợ đời" thì không những hai mươi năm, mà cả đời ta sống cũng chỉ để trả nợ. Trả nợ cả đời thì quả thực bất hạnh vô cùng!

Giáo lý đạo Phật chính là phương thuốc có công năng chữa căn bệnh tử sinh ngàn đời của con người. Đời ta trầm luân gánh nặng mang hoài, nếu không gặp được chánh pháp đức Phật thì làm sao ta biết được con đường thực tập để chấm dứt dòng phiền não sinh tửMay mắn trong kiếp sống này, ta có nhiều bậc thầy xuất hiện, tặng cho món quà quý báu là pháp hành của Phật. Nhận lấy món quà này, nếu thực tập nghiêm túc ta sẽ điều phục được thân tâmchế ngự được giận hờn, buồn khổ, ganh tị, bất an... đem đến cho ta an bình, tịnh lạc, hạnh phúc ngay trong hiện đời. Xin hãy đón nhận và uống vào những viên thuốc giáo lý của đức Phật để chữa lành căn bệnh ngàn đời của chúng ta. Việc này ai cũng có thể làm được; và chắc chắn trong hiện tạitối thiểu chúng ta cũng sẽ là tặng phẩm cho người thân, cho gia đình và cho xã hội. Bấy giờ tâm nguyện của ta là sự hiến dâng, chứ không phải là tâm hành trả nợ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/02/2015(Xem: 7970)
Con người chúng ta vốn rất nhỏ bé, nhưng khi chúng ta biết ơn thì sẽ trở thành con người vĩ đại. Bởi vì biết ơn là chiếc huân chương rực rỡ nhất, cho sự chiến thắng chính mình. Vì chúng ta đã vượt qua nghịch cảnh, chính bằng năng lực của mình. Vì trong cuộc đời con người, với bất cứ ai và hoàn cảnh nào, thì ai cũng từng gặp thất bại cả. Và có mấy ai dám biết ơn chính những thất bại của mình không. Và chỉ khi người ta thành công,
03/02/2015(Xem: 8431)
Ngày 3-4, tháng 1, năm 2015, trời lạnh xuống 36 độ F, bên ngoài chánh điện, các bồn hoa và lối thiền hành bị đóng một lớp băng đá trong vắt phủ lên trên, khiến cho thành phố Perris vốn là vùng bán sa mạc nắng nóng, bỗng nhiên trở thành băng giá trong tiết đầu đông của miền Bắc Mỹ. Gió se thắt lòng người và lạnh run lập cập, nhưng cũng không cản bước được các giới tử đủ mọi lứa tuổi từ trong và ngoài tiểu bang California vân tập về Chùa Hương Sen để tham dự khoá tu lạy tam bộ nhất bái, thọ Thập Thiện cùng Bồ Tát Giới.
01/02/2015(Xem: 6591)
Họ tôi chạp mộ đầu năm vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch. Trời mưa lạnh, ai nấy cũng lủ khủ áo mưa cuốc xẻng, như đoàn quân ô hợp, lớn bé, trẻ trai, già lão. Tôi lớn nhất đang ở tuổi 63 lại là trưởng họ. Tôi đang cuốc cỏ, chị Loan gọi mời tôi họp đầu năm. Lúc ấy, 9 giờ 30, còn hơn tiếng đồng hồ nữa mới xong. Tôi cúng họ năm mươi ngàn đồng trà lá, phụ vào buổi ăn trưa vì về sớm, rồi phóng xe chạy đi. Ngày mai, ngày chạp chính. Các em tôi bắt heo từ chiều qua.
01/02/2015(Xem: 10622)
Trong sự mơ hồ của một người lần đầu tiên đặt chân đến đây, một điểm đến mà nhiều người mơ ước, chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên trước những gì hiện ra trước mắt bạn. Một đất nước Bhutan được mệnh danh là nơi hạnh phúc nhất thế giới. Vậy điều gì đã khiến cho Bhutan có được những điều tưởng chừng như trong mơ ấy? Trải dài trên triền của dãy Himalaya huyền thoại, giáp ranh với cao nguyên Tây Tạng, một phía kia là Ấn Độ, với dân số hơn 700.000 người phân bố khá đều trên diện tích gần 47.000 km vuông, cho đến những năm cuối của thế kỷ 20, Bhutan vẫn là một nơi gần như tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
01/02/2015(Xem: 8268)
Mùa hè tôi về thăm quê, nhân tiện ghé Viện Phật Học Vạn Hạnh để thăm và đảnh lễ Cố Đại Lão Hòa Thượng Minh Châu. Sau khi vào Tổ Đường Hòa Thượng Chơn Nguyên thắp hai cây hương và trao cho tôi. Hai cây hương rất lạ, dài gần gấp tư cở thường mua ở chợ bây giờ và tỏa mùi thơm ngào ngạt. Tôi vốn đã bị bệnh dị ứng nhiều năm nay, thường ngửi mùi hương là phải hách xì liên miên. Ở nhà, ngay cả những hộp hương thơm có người mang từ Nhật về biếu hay mua tại các cửa hàng bên Mỹ, loại hương cây ít khói, đựng trong hộp và không có que bên trong
01/02/2015(Xem: 7422)
Sinh ra không được lạnh lặn, thiếu đi đôi bàn tay nhưng Hạnh đã vượt lên số phận để vươn lên và ông trời đã không phụ lòng Hạnh. Sinh ra đã không có tay, nhiều người lại đồn thổi rằng Hạnh bị “ma ám”, tuy nhiên, vượt qua mọi khó khăn, cậu bé Hạnh khiến nhiều người phải cảm phục nghị lực của em khi em dùng chân viết chữ, chải đầu, chạy xe và hơn cả là em đã đoạt huy chương bơi lội. Đó là cậu bé Hồ Hữu Hạnh (16 tuổi, ngụ xã Gia Canh, huyện Định Quán, Đồng Nai). Là con trai đầu trong gia đình có bốn anh chị em nhưng Hạnh lại là người khác biệt nhất. Khi sinh ra Hạnh không có tay. Nhưng điều gia đình và mọi người xung quanh ngạc nhiên là khi lên 3 tuổi, Hạnh đã dùng chân cầm nắm những vật nhỏ như lược chải tóc, đồ chơi...
31/01/2015(Xem: 7808)
Như một thiện duyên, tôi khởi sự viết tản văn khi đã lớn tuổi. Dầu cho tâm thế là nhẹ nhàng khi viết, nhưng nhiều lúc cứ tự trách mình, sao trí nhớ mình dở để đến nỗi những gì mình đọc, những gì mình nghe bị cuốn đi đâu; thế là khi viết, phải đi tìm tài liệu, rồi đi hỏi. Vì vậy, tôi rất phục những người có trí nhớ tốt, lại càng khâm phục những người nghiên
30/01/2015(Xem: 9812)
Hôm mồng 08 tháng 12 Âm lịch (27/01/2015), Tổ đình Thiền tông Thiếu Lâm Tự tổ chức nấu Cháo Bát Lạp, để dâng cúng dường Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, hoạt động này đã thu hút hàng trăm Phật tử tham gia chế biến món truyền thống với hương vị đặc trưng này. Hôm nay cũng là Lễ hội Cháo Bát Lạp nhân Kỷ niệm ngày đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật, được gọi là “Pháp Bảo Tiết”. Vào buổi sáng lúc 08 giờ 30 phút, Hòa thượng Thích Vĩnh Tín, Phương trượng Thiếu Lâm Tự, cùng đại chúng vân tập Đại Hùng Bửu điện cử hành cung phụng Pháp hội, những tình nguyện viên, thiện nam tín nữ Phật cầu Phúc.
26/01/2015(Xem: 9675)
Bất cứ tổ chức nào muốn tồn tại lâu dài và muốn phát triển mục đích, cũng như tôn chỉ của mình đến với đa số quần chúng, thì tổ chức đó phải có nhân sự. Nhân sự là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển hay suy vong của tổ chức. Đào tạo nhân sự thiếu phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân suy thoái của Tổ chức GĐPT. Đào tạo nhân sự có đầy đủ phẩm chất Bi Trí Dũng, đó là nguyên nhân tồn tại và phát triển của Tổ chức GĐPT.
20/01/2015(Xem: 7767)
Đến bây giờ mới thấy đây. Câu nói này của ai mà nghe quen thuộc thế? Của Nguyễn Du rồi. Ô hay! Cái ở đây chỉ có thể thấy được khi mình trở về được với cái bây giờ. Đến được cái bây giờ thì mới thấy được cái ở đây. Cái ở đây là cái không gian. Cái bây giờ là cái thời gian.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]