Sáng nay khí trời
lành lạnh,
phong cảnh ở đây thật đẹp và
thanh bình. Tôi vừa được gợi ý nên nói chuyện với các cháu ở đây để các cháu có một chút
ý niệm về
đạo Phật. Và tôi sẽ kể cho các cháu nghe vài
câu chuyện vui
dễ thương về
đức Thế Tôn.
Trong
cuộc đời đức Thế Tôn từ khi bắt đầu
hành trình tu tập cho đến ngày
nhập Niết bàn, ngài đã đôi lần được các em bé
cúng dường rất
dễ thương. Sau khi rời bỏ
lối tu khổ hạnh, ngài
đi vàorừng tìm một gốc cây để
tọa thiền và rồi ngài nhìn thấy
cây Bồ đềcành lá xanh tươi, tán xòe rộng
mát mẻ, ngài
quyết định ngồi lại nơi đây để
thiền định.
Lúc ấy, có một chú bé đang cắt cỏ cho trâu ăn, đến hỏi
đức Thế Tôn: "Ngài có cần cỏ này để trải ngồi không?"
Đức Thế Tôn trả lời: "Ồ, tốt quá, cám ơn con". Đó là một loại cỏ rất mềm có tên là Sukkha và ngài đã lấy nắm cỏ trải làm tòa ngồi.
Đức Phật đã
tiếp nhận món quà
đơn sơ đó với tấm lòng trân quí. Và
lành thay cho Svastika - chú bé đã tặng nắm cỏ êm mượt làm tòa ngồi cho đức
Cồ Đàm: sau bốn mươi chín ngày đêm
thiền định, vị thầy tu
gầy gò kia đã
đạt đến trí tuệ siêu việt,
giác ngộthành một vị Phật. Đây là món quà nhỏ đầu tiên đầy
ý nghĩa mà
đức Phật đã
tiếp nhận. (Svastika là người đầu tiên gặp Phật và cũng là người đầu tiên được hầu chuyện sau khi ngài
thành đạo).
Thông thường quà tặng dành cho những người
thương mến, ta nghĩ phải là những thứ
sang trọng,
đáng giá; hoặc đối với những bậc
tôn quí, ta cũng thường
lựa chọn những vật phẩm
giá trị, thật đích đáng để dâng cúng. Thật ra đôi khi điều đó không hẳn đúng - ta đã bỏ qua một
lời khuyên xác đáng: Của
cho không bằng cách cho. Khi có tấm lòng
chân thành của ta đặt vào thì dù món quà là một vật nhỏ nhoi, có khi không đáng là gì cũng sẽ
trở thành quí giá. Hơn thế nữa, nếu
chúng ta đón nhận món quà bằng tất cả sự
trân trọng, thì phẩm vật đó
trở thành thượng hạng, và có thể
nuôi dưỡng tâm thức người cho lẫn người nhận.
Trong đời sống
gia đình, những
trường hợp như vậy
chúng ta có thể gặp hàng ngày. Tuy gặp hàng ngày nhưng mình không
thông minh để
nhận biết, để đón nhận. Quà tặng của con cái gởi đến ta từng ngày: buổi sáng chúng
đi vào phòng thăm bố mẹ, đó là quà tặng; buổi chiều đi học về chúng vào nũng nịu, làm eo làm xách, đó cũng là quà tặng. Thế mà mình vô tình không
thưởng thức để cho giây phút ấy
trôi qua mất.
Chúng ta cứ nghĩ niềm vui, niềm
hạnh phúc là cái gì to lớn xa vời, phải
tìm kiếm ở
nơi khác. Kỳ thực,
hạnh phúc đang có mặt ngay bây giờ và ở đây, có mặt
trong vòng tay
chúng ta từng giờ, từng ngày.
Một ông bố nọ làm
luật sư, có ba dứa con nhưng ông rất bận rộn, không đủ
thì giờ dành cho con. Một ngày kia, đứa bé năm tuổi chạy vào phòng làm việc gọi ông: "Bố ơi, con có một món quà cho bố nè! Con mới họa xong cảnh nhà mình đẹp lắm. Bồ dừng lại nhìn một chút đi". Ông bố nói: "Bố bận lắm, ra ngoài chơi đi, chiều con đưa cho bố xem cũng được". Thằng bé đi ra, nhưng lúc sau nó lại chạy vào nói: "Bố ơi, bố dừng lại một chút, con muốn khoe món quà này con vừa làm xong". Ông bố bảo: "Để chiều đi, bố bận lắm". Nhưng đến chiều ông quên mất, không nhớ gì đến chuyện lúc sáng. Và ông thấy đứa bé vẫn
bình thường tự nhiên không nhắc gì đến chuyện cũ.
Rồi mùa
Giáng Sinh lại về, lần này đứa bé họa một
bức tranh lớn để tặng
gia đình.
Dĩ nhiên là một em bé mới học lớp hai thì bức họa của nó không thể đẹp như ta mong muốn; nó vẽ
mặt trời, căn nhà, mẹ nó, em nó...; bố cục cái lớn, cái nhỏ không cân xứng. Và khi ngày
Giáng Sinh đến, nó mang bức họa mà nó đã dành rất nhiều
thì giờ để vẽ tặng
gia đình ra trước
mọi người. Nó nói: "Bố nhìn xem có đẹp không?" Ông bố nhìn: đây là vợ mình, đây là đứa con lớn, đây là em nó, và đây là "tác giả"... nhưng điều quan trọng là ông tìm mãi vẫn không thấy mình - nó không vẽ ông. Và ông liền bảo: "Bố đâu không thấy trong đây, con? Đây là hình
gia đình mà". Nó
trả lời: "Bố lúc đó mắc bận, bố đang ngồi trong phòng để
tư vấn cho nhiều khách hàng. Bố không có ở đây". Khi nghe thằng bé
trả lời, ông bố
bàng hoàng, xót xa tự nghĩ: "Mình làm
mọi việc, sống vì con, lao động
vất vả lo cho con nhưng mà mình không có trong trái tim của nó, mình bị nó khai trừ khỏi
bức tranh gia đình mất rồi".
Chúng ta đừng nên nghĩ con em
chúng ta cần đến những gì to tát. Có khi cái chúng cần chỉ là sự có mặt của mình: "Hãy dừng lại mẹ à. Hãy đi với con một chút". Thế là đủ. Đây là món quà thiết thân nhất mà hai bên có thể tặng cho nhau.
Sau đây là một
câu chuyện thiền,
xem như bước dẫn dắt để chúng biết được việc
tu tập như thế nào.
Có một vị
thiền sư vân du học đạo. Ông nghe nói có một vị thầy kia rất
lỗi lạc, bèn tìm đến dảnh lễ: "Xin thầy
từ bi dạy cho con tu, dạy cho con biết thế nào là Phật trong con". Vị thấy tuy rất
uyên bác nhưng phải tật rất "hà tiện" không muốn dạy gì nhiều, ông liền bảo: "Ồ,
Phật pháp đâu phải cá tôm mà sợ sình thối.
Thong thả rồi ta sẽ dạy cho. Bây giờ chuyện cần nhất là
đại chúng đang thiếu ăn, ông hãy
đi xuốngphố
khất thực, mang một ít gạo về để nuôi
đại chúng trong mùa này rồi ta dạy đạo cho". (Chuyện
tu họcPhật pháp chưa biết tới đâu, nhưng chuyện "thực pháp"
đi trước, chuyện
ăn uống được đặt ra hàng đầu, nơi nào cũng vậy).
Nghe vị thầy
dạy bảo, thế là ông quảy túi đi hết mấy tháng trời mới có đủ gạo đem về chùa. Ông đến thưa với thầy: "Bạch thầy con đã xin đủ gạo ăn cho
đại chúng. Xin thầy
từ bi chỉ dạy
Phật pháp cho con". Nhưng vị thầy lại bảo: "Ông đã đi qua hết
mùa thu, nay đã đến
mùa đông,
đại chúng đang thiếu củi ông hãy vào
rừng kiếm một ít củi về để đun nấu, sưởi ấm". Ông thầy hơi buồn, nghĩ mình
bị gạt, nhưng
Hòa thượng dạy thì mình phải nghe. Thế là phải mất một
thời gian dài đi kiếm củi cho
trung tâm tu họcđến gần năm trăm người
sử dụng. Thế nhưng khi
trở về lại biết
Hòa thượng được mời đi qua một ngôi chùa khác để giảng dạy. Ông thầm nghĩ,
cuối mùa đông này,
Hòa thượng sẽ đi, trước khi đi ngài bận rộn với bao nhiêu việc, đâu có
thì giờ mà dạy cho mình. Vốn đã nhiều lần xin chỉ giáo mà chẳng được, nay ông
quyết định xin
đi theo vị
Hòa thượng qua ngôi chùa kia. Ngay tối hôm vừa mới đến, ông lại vào liêu
Hòa thượng đảnh lễ xin dạy cho "thế nào là Phật". Nhưng cũng như mọi lần, vịthầy bảo: "Ta mới đến đây với bao nhiêu là việc, nào ruộng vườn, sổ sách,
tăng chúng vãng lai..., lại chưa có
thư ký,
thì giờđâu mà dạy cho ông
Phật pháp, thôi ông hãy làm
thư ký cho ta". Ông thầy
cảm thấy buồn, nghĩ sao mà
Hòa thượng cứ
trì hoãn hoài!
Một hôm đang
tọa thiền dưới nhà bếp, trong cảnh tĩnh lặng, bỗng ông nghe một tiếng "ầm" do con mèo chạy làm rớt nồi niêu, soong chảo gì đó.
Đột nhiên vấn đề từ lâu ông mơ ước, khắc khoải sáng bừng trong ông. Ông thể ngộ được cái gì là Phật của chính mình. Ông mừng rỡ, nước mắt tuôn trào, đến cửa thất
Hòa thượng đảnh lễ tạ ơn. Ngay
lúc ấy, vị
Hòa thượng mở cửa nhìn ông cười bảo: "Ồ,
chúc mừngông việc lớn đã xong". Nước mắt vẫn còn đầm đìa, ông thưa: "Việc
Phật pháp có gì khó khăn đâu sao thầy nỡ để con chạy quanh
tìm kiếm bao năm tháng?"
Hòa thượng trả lời: "Nếu ta không làm như thế thì ông không thể nào
ngộ đạo, không thể
nhận ra vị Phật nơi chính ông được". Từ đó ông
hết lòng tri ân vị thầy đã dạy mình.
Trên
con đường tu tập,
chúng ta thường thao thức,
mong đợi làm sao có được
an lạc và
giải thoát. Cuộc sống cho ta nếm đủ
mùi vị của nỗi khổ; khổ vì
thiếu thốn, khổ vì
hình hài tật bệnh, vì
hoàn cảnhgia đình, và buồn khổ vì sự
cô đơn. Chưa có một ai có thể nói tôi là người
hoàn toàn hạnh phúc.
Chúng ta thử nhìn mà xem, từ
bản thân mình,
gia đình,
họ hàng mình, bạn hữu của mình,
cho đến người hàng xóm
giàu sang quyền quí... ai cũng có nỗi khổ, cùng nếm chung hương vị của chữ khổ như nhau.
Chúng ta mơ ước
chấm dứt mọi khổ đau: khổ của thân, khổ của
hoàn cảnh, khổ của sự
thiếu thốn vật chất, khổ của
bất như ý, khổ của
vui buồn, thương ghét...
đè nặng lên
tâm thức và như vậy là
chúng tacố đi kiếm tìm
hạnh phúc.
Cái khổ lớn lao nhất của
đời người là
sợ chết. Hầu như
chúng ta đều giống nhau ở chỗ là thường băn khoăn không biết rồi mình sẽ đi vê đâu. Ai rồi cũng đi đến đoạn cuối trả
hình hài về cho cát bụi, nên cái chết đến là chuyện
chắc chắn. Tuy vậy,
bản chất của cái chết vừa là một
sự thật bất biến lại vừa rất bấp bênh,
bất định. Nghe ra có vẻ
mâu thuẫn. Thế nhưng nỗi hoang mang,
lo lắng và
sợ hãi của
chúng ta lại nằm ở điểm này. Bấp bênh
bất định là vì ta không biết chắc cái chết sẽ đến với ta lúc nào, và cái chết sẽ đến với mình ra sao. Nó gửi đến ta
bản án treo không hẹn tháng ngày, để rồi có thể bất ngờ ập xuống đời ta một lúc nào đó. Có thể hôm nay, ngày mai, vài ba năm nữa, hai chục năm sau hay trong chốc lát...
Rõ ràng ta không
biết mình sẽ đi về đâu.
Chúng ta sẽ rơi vào cõi mịt mù rất
ghê sợ của hố thẳm hư vô? Đây là nỗi lo sợ lớn nhất của
con người.
Ngay trong câu hỏi của vị tăng xin
hòa thượng dạy
cho biết Phật là gì cũng có thể giúp
chúng ta trở vềan trụ trong vùng đất Phật của chính mình,
chấm dứt con đường lang thang
vô định.
Chấm dứt ở đây không có nghĩa là khi
hiểu biết rồi,
tu tập rồi thì thân này
trở thành kim cương bất hoại.
Chấm dứt là ta biết ta từ đâu mà có mặt
trong đời; khi trả
hình hài này cho
vô thường ta còn lại gì:
Ta còn gì để lại không?
Kìa non đá lở, này sông cát bồi...
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về.
Cuộc đời vốn luôn
biến thiên, thay đổi không thể lường được. Núi non còn đó nhưng rồi sẽ thành sông hồ, và sống hồ, biển cả
mai kia có thể là nương dâu.
Chúng ta đã lang thang qua bao triệu
kiếp luân hồiđến nay vẫn không
biết mình từ đâu có mặt trong trần gian này. Ta cũng không biét khi rời bỏ hành tinh này ta sẽ đi về nơi nào. Nỗi
sợ hãi của một người đi trên biển dù có lớn bao nhiêu nhưng vẫn còn chỗ bám bíu, biết rằng ta có bến bờ, có bạn
đồng hành và ít ra còn có con thuyền. Nhưng nghĩ về cõi chết mịt mù,
thăm thẳm kia chỉ có
một mình ta trôi chơ vơ không bạn
đồng hành, không bến đậu thì
quả thậtlà nỗi
hãi hùng.
Do đây, câu hỏi xin khai thị về
Phật tánh của vị tăng sĩ
ngày xưa chính là niềm khao khát
tu tập làm thế nào để
giải thoát, để có được
an lạc ngay trong hiện đời, không còn
tới lui trong vòng sinh tử luân hồi. Khi
hành giả bước vào
con đường tu tập là chỉ đặt
vấn đề quan trọng ấy thôi. Còn
chúng ta tu tập hôm nay chỉ để mong có vài ba ngày thư giãn, có chút
thảnh thơi,
an lạc là đủ rồi. Đâu cần đặt
vấn đề gì quan trọng.
Tối thiểu thì cũng đã để ra được vài ngày rời khỏi thành phố náo nhiệt, đến hưởng
không gian núi đồi yên tĩnh là
hạnh phúc rồi.
Chúng ta không mơ ước hướng đến
đời sống tâm linh cao hơn, đưa
tâm thức siêu vượt như các vị
thiền sư.
Chúng ta rất khác người xưa là như vậy.
Vị thầy kia xin
thiền sư dạy cho
pháp hành làm thế nào để có
thể đạt thẳng đến sự
an lạc giải thoát ngay trong trái tim của mình. Vị
thiền sư lỗi lạc kia đã không
đáp ứng. Ông chỉ
loanh quanh bắt học trò làm từ việc này đến việc khác, đến chín năm như
thế cho đến lúc người học trò rất ham
tu tập kia tự mình
giác ngộ điều quá bất ngờ, đó là cái mình muốn tìm đã ở ngay trong mình, ngay nơi đây, và lúc này, không phải ở đâu khác.
Các vị
thiền sư hướng dẫn
đồ chúng thường
hạn chế tối đa việc thi thiết
phương tiện. Các ngài muốn
chúng ta khao khát, bức xúc mỏi mòn phải tự
khám phá và một ngày nào đó
chân lý sẽ tự bừng sáng trong
tâm thức. Cũng có khi họ đẩy sự
đam mê của người học trò đến độ bùng cháy rồi mới bắt đầu hé cánh cửa cho người học trò bước vào. Tại sao các vị thích
quanh co che dấu, mà chẳng chịu giải bày ngay? Điều này cũng thật
dễ hiểu: việc gì
mang đến sự
thành công dễ dàng, người ta sẽ hay
chủ quanxem thường - những gì mà tự ta phải khổ công, khó nhọc
tìm kiếm, tạo dựng thì ta mới thực sự trân quí.
Cũng như
chúng ta, nhiều người có cơ hội gần gũi những vị thầy giỏi, dạy cho mình những
pháp mônthực tập căn bản như "thở vào biết
thở vào,
thở ra biết
thở ra..." rất nhẹ nhàng, giản dị thì ta dễ phát sinh
tâm lý xem thường, cho rằng sinh ra là đã biết thở rồi, cần gì phải học thiền, học thở. Thế nhưng nếu
chúng ta có dịp lần mở những trang kinh
Nguyên Thủy đọc để thấy
đức Thế Tôn dạy các thầy
tỳ kheo ngày xưa nương vào pháp
quán hơi thở này mà có thể
chứng quả A la hán trong hiện đời, mới biết đây không phải là
pháp thực tập
bình thường.
Những kinh như
kinh Tứ Niệm Xứ,
kinh Quán Niệm Hơi Thở trong
văn học A Hàm là những
bài kinhquan trọng giúp cho
chúng ta tiếp xúc trực tiếp với
pháp môn căn bản để
thực tập và
chứng nghiệm giải thoát,
an lạc ngay trong
hiện tại. Thế nhưng những kinh này nếu có đọc,
chúng ta cũng chỉ đọc lướt rồi để qua một bên, vì những câu chữ nghe qua quá
đơn giản, chân chất,
bình thường và nhất là nó không
thỏa mãn cho sự tò mò,
hiếu kỳ của
chúng ta. Ta phải học cái gì nghe cao siêu hơn như
Tánh Không,
Niết bàn,
Bát nhã,
Hoa Nghiêm,
Trung quán...,
hay nói những gì vượt trên chín tầng mây như
thế giớiHoa tạng... thì mới
lý thú.
Tâm thức con người thường như vậy, thích những gì xa vời,
huyền ảo, mông lung.
Do vậy, các
thiền sư nghĩ rằng muốn chỉ
tâm Phật nằm ngay nơi mỗi người thì cách hay nhất là đừng nói gì cả mà hãy để cho sự khát khao của họ đủ lớn và khi
trực nhận được
chân lý họ mới
sống chết với nó, mới không thể quên được. Nếu
giải thích rõ ràng,
chỉ dẫn từng tí một, người xưa gọi đó là
ngôn ngữchết. Trong nhà thiền gọi là tử ngữ,
ý muốn chỉ
lời nói rõ ràng,
sáng tỏ dễ hiểu một khi người ta nắm bắt được rồi sẽ trở nên
nhàm chán. Người ta không băn khoăn, thắc mắc, không
mong chờ, mơ ước
thành đạt nên
trở thành hờ hững, không bận tâm. Nếu như vậy là chôn vùi người kia chứ không giúp được gì. Thế nên, các
thiền sư luôn dấu kỹ những điều rất giản dị, không muốn nói rõ là như vậy.
Điều các vị thầy muốn nhắc nhở chúng ta là quay về quán chiếu cái mình đang đi tìm, để thấy cho được nó đã có mặt nơi chúng ta. Chúng ta mãi tìm kiếm vòng quanh, đến chừng quay trở lại thì thấy rõ ràngnó đã có sẵn nơi mình rồi. Từ những việc bình thường trong đời sống cho đến an lạc, giải thoát, Niết bàn thâm sâu cũng như vậy thôi. Ta tìm hạnh phúc ư? ta cứ tưởng thủ đắc cái này, cái nọ mới hạnh phúc. Quan niệm hạnh phúc đó đã lừa gạt chúng ta và nó luôn di chuyển mục tiêu khiến ta không bao giờ dừng lại việc miệt mài theo đuổi. Hãy thử quay lại nhìn vào tự thân, ta sẽ thấy tâm thức luôn mong mỏi, chưa bao giờ bằng lòng với những gì đang có. Khi chúng ta chưa vui sống với những gì ta có, chưa vui sống với chính mình, với cuộc đời mình, dù ta có tìm được những thứ gì khác để có hạnh phúcthì hạnh phúc đó cũng không bền vững. Trong chính đời sống của ta, hạnh phúc đã có mặt. Nên biết hạnh phúc hay bất hạnh đều từ trong ta: Nó là cái bóng của chính ta. Hãy quán chiếu thật sâu điều này để cảm nhận. Nếu ta là cây tùng thì ở đâu cũng là cây tùng, nếu là dây leo thì suốt đời bám leo, nương tựa. An lạc, hạnh phúc là cái đang có trong tay mình, ta chỉ cần thọ hưởng. Làm được điều này là chúng ta đã nắm được căn bản của sự tu tập.
Phương pháp thực tập đơn giản mà
đức Thế Tôn đã chỉ dạy là đem tâm về
an trú nơi
hơi thở. Dừng lại, không để cho
tâm thức rong ruổi, lang thang đó đây. Mời lòng dừng lại nơi đây để thấy cỏ dưới chân mình vẫn xanh, chứ không phải cỏ bên kia đồi xanh hơn. Nhà ta có hai phòng, con cái ta
như vầy, ngay nơi đây ta đã có vô vàn
điều kiện để
hạnh phúc. Hãy
ngắm nhìn và bằng lòng với những gì ta đang có là
hạnh phúc tự nhiên nở hoa trong ta.
Trên một chuyến phi cơ từ Canada về Mỹ, có hai người một nam, một nữ ngồi gần nhau trên cùng một hàng ghế. Anh chàng người Mỹ
cảm thấy bực bội và khó chịu vì cách
tiếp đãi,
cư xử của cô tiếp viên, hơn nữa
thức ăn thì
quá tệ, nên anh ta
cau có, lầm bầm
trong suốt chuyến bay. Người bên cạnh là một
phụ nữ Trung Đông không giỏi tiếng Mỹ. Bà nhìn sang anh chàng người Mỹ cười rất tươi, nói: "Chuyến đi thật là hạnh phúc!" Bà khen ngợi từ tiếp viên
cho đến thức ăn... cho rằng tất cả đều
hoàn hảo. Anh ta
trợn mắt hỏi: "Bà có chắc không?" Bà
gật đầu, nói tiếp: "Anh biết không, đất nước tôi rất khốn khổ,
thiếu thốn mọi thứ, thiếu cây xanh, thiếu nguồn nước, thiếu ăn, thiếu mặc..., lại không một ngày bình yên, bom đạn rơi như mưa, cái chết chực chờ giáng xuống người dân nước tôi bất cứ lúc nào. Tôi không biết tôi có còn sống được đến ngày mai hay không. Hôm nay tôi có được một ngày bình yên, thật là
tuyệt vời. Ôi, ở đất nước tôi làm gì mà có được như vậy".
Chúng ta không cần nhìn qua Trung Đông, chỉ nhìn ở
gần đây ta cũng thấy mình đang có vô vàn điều
hạnh phúc. Biết bao nhiêu người còn bị sự
nghèo đói vây quanh, nhiều trẻ em thất học, kẻ không nhà đầy dẫy... họ không được như
chúng ta,
vậy mà chúng ta thấy sao
phiền não,
bất an vẫn đến bủa vây mình.
Chúng ta đang dẫm bước trên
hạnh phúc, dạo chơi trên
hạnh phúc, thở trên
hạnh phúc.
Hạnh phúc đang ở
trước mặt, bên cạnh và chung quanh ta.
Đời sống của
chúng ta tươi đẹp như vậy, thế mà
chúng ta không biết thưởng lãm. Mỗi ngày
chúng ta tự làm khổ chính mình; tự dày xéo, làm
đau thươngmình bằng những giận hờn,
ưu tư,
buồn phiền... Đây là điều
vụng về nhất mà
chúng ta cần khắc phục.
Chung qui cũng tại
chúng ta chưa biết dừng lại và cũng vì thế nên
đức Thế Tôn đã để lại cho
chúng tamột
phương pháp rất nhiệm mầu: Đó là
phương pháp thực tập đem tâm về
an trú ngay nơi
hơi thở, dừng tâm lại ngay nơi thân thì
hạnh phúc,
an lạc liền có mặt ngay lúc đó. Nếu
chúng ta biết làm cho tâm dừng lại ngay bây giờ để
tiếp nhận trọn vẹn, sâu sắc những
điều kiện mình đang có là
chúng ta đã
thông minh biết
thưởng thức hạnh phúc của chính mình.
Đức Phật vẫn luôn khẳng định tất cả
chúng tađều có sẵn
tự tánh Niết bàn,
thể tánh của một vị Phật nơi mình, thế mà ta không sống được với
thể tánhvốn có ấy.
Chúng ta cam chịu làm
chúng sinh nổi chìm trong
sinh tử.
Đức Thế Tôn ngay lúc
thành tựugiác ngộ đã thốt lên: "Mọi
chúng sanh đều có đức
tướng trí tuệ
Như Lai, thế mà không
khám phá, không sử dụng". Phật đã tự có trong
chúng ta,
bình an,
hạnh phúc là cái sẵn đủ không
cần phải làm điều gì thêm. Chỉ vì
chúng ta chưa đủ
thông minh làm cho nó
hiển lộ ra mà thôi.
Bản chất từ bên trong của mỗi
hình hài đều có
tự tánh giác ngộ nằm sẵn. Gọi là
Phật tự có. Trong
thiền tông có một thiền ngữ rất
quen thuộc đó là: "Thấy tánh ngộ đạo".
Từ
ngộ đạo chúng ta thường
sử dụng ở
ý nghĩa phổ thông, ví dụ như khi thấy
giá trị của
Phật pháp,
chúng ta phát tâm quy y Tam Bảo,
thọ trì năm giới...
Tuy nhiên, theo
Thiền tông,
ngộ đạo nghĩa là
chúng ta có khả năng quay vào bên trong,
nhận ra tự
thể không sanh không diệt,
thường hằng bất biến nơi mình, đó cũng chính là
trạng thái Niết bàn như như bất động. Cũng theo
Thiền tông, tất cả những gì làm được ở bên ngoài đối với một
hành giả tu thiền đều chưa phải là
ngộ đạo. Đó chỉ mới là những
phát tâmtu tập hướng về
con đường thiện lành, chưa phải là thấy đạo một cách
rốt ráo.
Ngày xưa, từ
ngộ đạo cũng được dùng để chỉ cho những
hành giả chứng được quả
Dự lưu (
Tu đà hoàn). Quả
Dự lưu không phải chỉ là
quả chứng của riêng giới
xuất gia, mà dành cho bất kỳ ai mở được con mắt
chánh pháp (
pháp nhãn). Khi
hành giả thấu triệt được
chánh pháp,
mở rộng con
mắt tâm thì từ đó
cuộc đời bắt đầu trôi thẳng vào biển
giải thoát (không còn
lưu lạc trong
cõi trần ai). Người xưa goi là
chứng quả Dự lưu,
Thiền tông Trung Hoa gọi là
ngộ đạo.
Chúng ta hôm nay
thường dùng một từ
dễ hiểu, gần gũi là
nhận ra cái
không sinh không diệt trong
hình hài năm uẩn; trực ngộ
bản chất thực của
hình hài này là
vô sinh bất diệt.
Trên
hành trình trình
tu tập Phật đạo, nỗi khao khát lớn nhất của
hành giả là
tiếp xúc cho được
thể tánhkhông sinh không diệt này. Các
tôn giáo cũng
tìm kiếm cái
bất sinh bất diệt, chỉ có điều tầm mức
tâm linh của các vị
giáo chủ có khác nhau.
Đời sống con người là một
hành trình tìm kiếm không ngừng nghĩ; lúc còn trai trẻ,
chúng ta muốn có
danh phận,
đời sống vật chất đầy đủ; ở tuổi trung niên ta thường
tìm kiếm lợi danh và khi đến già, tuổi đời kề cận với ly biệt nên ta muốn
thăm dò vào
lãnh vực tâm linh. Các vị vua chúa sau khi đánh đông dẹp bắc, ngồi trên vương vị thì điều
mong ước lớn nhất của họ là được
trường sinh bất tử. Sử sách ghi lại không hiếm các bậc đế vương (
Trung Quốc) dùng đủ mọi
phương tiện để kiếm
tiên dược trường sanh, cải lão hoàn đồng. Và
chúng ta đến
một độ tuổi nào đó đều có niềm mơ ước như vậy. Đây là niềm mơ ước chung của
con người trên trần gian này.
Thế nhưng phần lớn
chúng ta đều không có cơ hội
tiếp xúc với
chánh pháp. Ngay cả một số người đủ duyên tiếp được xúc với
chánh pháp, đôi khi cũng nghĩ rằng cái
không sinh không diệt là cái
cần phảitìm kiến bên ngoài
con người này, hay cần làm sao sinh về một
cảnh giới mà trong đó có
lưu ly,
xa cừ,
trân châu,
mã não... Trong khi
giáo pháp đức Phật dạy rằng cái
không sinh không diệt nằm ngay trong
sinh diệt. Nếu
chúng ta có khả năng
quay về thì có thể
nhận ra được cái
không sinh diệt nơi chính mình. Khi
nhận ra được
thể tính này nơi mình thì mọi phù hoa thế trần không còn có thể dẫn dắt
chúng tađược.
Tự nhiên không có niềm
đam mê nào lớn hơn niềm
đam mê an trú vào tâm thể
vô sinh bất diệtcủa
chúng ta. Và khi đã nếm được hương vị của
chánh pháp thì không có gì của
nhân gian có thể lôi kéo làm
chúng ta quên đi sự
tu tập. Làm được điều này gọi là mở được con mắt
chánh pháp.
Thiền tônggọi là
ngộ đạo hay
kiến tánh; tổ
Lâm Tế gọi là
nhận ra con người thật của chính ta.
Chúng ta chỉ cần khéo quay lại thể nghiệm
tự tánh vô sinh bất diệt thì nơi đây cũng là
trạng thái Niết bàn, là
tâm Phật của chính
chúng ta. Đây là chỗ sâu nhất mà một người
tu hành nhiệt huyết muốn
thăm dò.
Chúng ta cần phải có
niềm tin vào
thể tánh Phật nơi chính mình để không còn lang thang, lạc lõng, bơ vơ
tìm kiếm ở bên ngoài.
Nếu nhìn sâu vào
đời sống thân thể vật lý, ta có thể
nhận thấy tất cả đều do
nhân duyên hòa hợp mà hình thành, đều do vay mượn các
yếu tố trong từng phút từng giây để
tồn tại. Vay mượn khí trời để
thở vào,
thở ra, mượn
thức ăn, nước uống để nuôi lớn từng ngày. Thế thì
hình hài này là do vay mượn, do
nuôi dưỡng chứ không phải là. "Con người thật" của ta hay
Phật tánh trong ta không phải là cái gì được sinh ra; vì cái gì được sinh ra thì sẽ có lúc suy hao, mỏi mòn và có mất đi. Cái gì có sinh thì
chắc chắncó diệt.
Hữu sinh, hữu diệt. Cho nên thân này,
hình hài này không phải là ta. Vị Phật đích thực trong ta không phải là do
nhân duyên hòa hợp, không phải vay mượn, không phải lớn dần từng ngày. Và Phật tuy không rời
hình hài này nhưng quyết không phải là
hình hài này.
Trong sâu thẳm
tâm thức, những gì lâu nay ta trân quí như niềm vui, niềm
hạnh phúc... thì đó cũng chỉ là những
cảm thọ phát sinh và
biến hoại liên tục, không
phản ảnh con người thật của
chúng ta. Thân này
bản chất của nó vốn
vô tri, nhờ
Phật tánh chiếu sáng bên trong nên
trở thành hữu tri. Những gì ta gọi là niềm vui,
nỗi buồn... đều được hình thành không phải chỉ thông qua sự
tiếp xúc đơn thuần từ các
giác quan, mà chúng được tạo ra
từ ý thức
hiện tại và
quá khứ của
chúng ta. Nói cách khác, niềm vui,
nỗi buồn được tạo nên một phần là do
cảm thọ, một phần do
ý thức; hoặc bằng
điều kiện,
nhân duyênbên ngoài và bằng hồi ức, tưởng tượng bên trong của
chúng ta. Và
ý niệm giữ một phần quan trọng trong tiến trình tạo tác này, nhưng quan trọng nhất vẫn là những
ý thức thầm thì ở sâu thẳm trong
tâm thức.
Ý thức thì thầm thì luôn có mặt bên dưới làm nền cho những hạt mầm
sinh khởi đưa đến tạo tác. Đó là những tiếng nói độc thoại, đối thoại âm thầm trong ta và bấy giờ ta vừa là chủ thể vừa là đối tượng; nó mang lại nhiều bộ mặt: quan tòa,
luật sư, chủ nhân và cũng là khách. Có những
trạng thái ý thức không nằm ở dạng độc thoại, đối thoại mà lăn tăn thầm lặng ở phía dưới; tinh mịn nhưng có mặt
thường trực.
Thực tế hơn,
ý thức chúng ta có
con đường quen thuộc, có nơi chốn hướng đến nó. Và khi có chỗ hướng đến là có một điểm trong
không gian; khi có mặt trong
không gian là có mặt
thời gian, có mặt trong chu trình
sinh diệt, chịu qui luật
vận hành của
vô thường. Trong
vật lý học, người ta cho rằng những gì vượt ngoài tốc độ ánh sáng sẽ không còn sinh, không còn diệt. Ánh sáng có vận tốc 280 ngàn dặm một giây, và chưa có một vật gì trên hành tinh này có thể vượt ra ngoài tốc độ ánh sáng. Người ta lấy ví dụ, nếu có một loại phi thuyền nào
vượt qua được vận tốc ánh sáng,
khởi hành ngay từ bây giờ, đi một vòng 80 năm của hành tinh, khi
quay trở lại thì người hành tinh này đã già 80 tuổi, nhưng
con người ngồi trên phi thuyền trong
không gian vẫn như chưa đi một phút nào. Thế nhưng,
ý thức của
chúng ta còn tinh nhạy hơn ánh sáng; sự
di chuyển vận hành của
ý thức nhanh hơn ánh sáng rất nhiều.
Ý thức ta đến đi,
sinh diệt để dệt thành những tiếng nói có thể vượt xa tốc độ ánh sáng. Khi ngồi tại đây nhưng
chúng ta nghĩ về
Việt Nam, có ngôi nhà cũ của mẹ, ta thấy ao bèo, mảnh sân đầy nắng... thì
lập tức ta có mặt ở
Việt Nam và tâm ta
lúc ấy chỉ bằng ngôi nhà, ao bèo, mảnh sân.
Nhưng "sự nhận biết" của
chúng ta tì thầm sâu,
mênh mông bao trùm cả
ý thức sinh diệt và vượt ra ngoài tốc độ ánh sáng. Và theo nguyên lý cái gì không có mặt trong
thời gian và
không gian thì vượt ra ngoài sự
sinh diệt. Vậy cái
không sinh diệt ở chỗ nào?
Thực ra, nếu chỉ ra được thì nó sẽ
trở thành đối tượng, thành cái của người khác mất rồi. Trong
trường hợp này nhà thiền gọi là thầm
liễu ngộ, thầm
nhận biết nơi chính mình và có
niềm tin mà thôi.
Khi định tỉnh
nhận ra được
ý thức sinh diệt đang
vận hành thì ta được
ví như bóng đèn đang
rọi sángchứ không phải là dòng
ý thức thì thầm ấy. Ta là ánh sáng của bóng đèn soi rõ những gì đang diễn hành trong ta. Ánh sáng bóng đèn của ta là gì? Đó chính là sự
nhận biết. Khả năng
nhận biết này không cần học, không cần
cố gắng cũng không cần
trình độ trí thức mới có.
Kiến thức là loại
sinh diệt chỉ vay mượn trong kiếp này mà thôi. Ví dụ tôi là người Việt
suy nghĩ bằng tiếng Việt, tiếng Việt chảy
thì thầmtrong tôi; quý vị học tiếng Pháp,
suy nghĩ bằng tiếng Pháp thì khả năng
nói thầm của quý vi bằng tiếng Pháp... Dòng
ý thức thì thầm của
kiến thức là những
hạt giống mới gieo sau này, mới vay mượn
gần đây; nó sẽ thay đổi,
sinh diệt tùy theo hoàn cảnh đời sống và
tâm thức của mỗi
chúng ta. Khi nhìn một đóa hoa, cái
nhận biết bừng sáng
ban đầu của
mọi người đều giống nhau. Nhìn là liền
nhận biết không
cần phải khởi tiếng nói
thì thầm.
Tuy nhiên, bước qua giai đoạn
nhận biết ban đầu này thì bắt đầu có sự khác biệt, chẳng hạn như
chúng ta là kỹ sư nông nghiệp, sẽ nhìn doa hoa dưới con mắt phân tích của
kiến thức sinh học, nếu ta là thi sĩ, sẽ nhìn đóa hoa dưới tâm trạng của một thi sĩ... và sự
nhận biết như vậy là do khả năng,
trình độ của từng người khác nhau, đôi khi còn kèm theo các
cảm thọ vui buồn của
quá khứ hay
dự tính của tương lai.
Tuy nhiên, sự
nhận biết ngay giây phút đầu tiên đều đồng đẳng như nhau, vì nó vốn đã có sẵn, không cần tìm cầu, không cần
thực tập,
học hành, vay mượn gì cả, chỉ cần
chúng ta biết
sử dụng mà thôi. Nó vốn là
bản nguyên, là
tâm Phật chiếu diệu của
chúng ta.
Để có
kinh nghiệm sâu sắc về điều này,
dĩ nhiên chúng ta phải
thực tập hàng ngày. Những ai đã thể nhận "con người thật" và
an trú vĩnh hàng nơi
tâm Phật vô sinh bất diệt thì người đó có thể
tự tại với
sống chết, đến đi của chính mình; có thể làm chủ
thọ mạng trong hiện đời, làm chủ
sinh diệt trong tương lai.