Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thưa Thầy, con hoàn tục !

23/08/201718:29(Xem: 7537)
Thưa Thầy, con hoàn tục !


giac-minh-luat

THƯA THẦY - CON HOÀN TỤC!

GIÁC MINH LUẬT


Thật lòng mà nói thì Tâm cũng chẳng muốn hoàn tục làm gì, vì với Tâm cuộc đời xuất gia là con đường, là hướng đi lý tưởng nhất mà Tâm có thể dành trọn lòng mình để phụng sự chúng sanh như những gì mà Tâm đã từng mong ước.


Nhưng rồi, ai mà có ngờ được đâu - cuộc sống vốn là vô thường biến chuyển, được mất, hơn thua giữa cái có không trong cái định luật tự nhiên của đất trời mà chính Tâm cũng không thể nào lường trước được.


Nên bây giờ, mở mắt ra Tâm đã thấy hình ảnh của mình trong chiếc gương soi trước mặt với thân hình hoàn toàn khác, tóc Tâm đã dài, mắt Tâm đã thâm quầng, và khuôn mặt đã hiện lên bao vẻ khắc khổ đầy gió sương, rồi Tâm chợt nhớ lại chỉ mới đây thôi, cái ngày của ba năm về trước.

Cái ngày mà Tâm đã đảnh lễ từ biệt Sư phụ và huynh-đệ để ra đi, để đi tìm thứ mà Tâm tạm gọi là hạnh phúc trần đời hay hạnh phúc đích thực của hai con người, cái mà ai cũng khổ, cũng phải vì nó mà nước mắt đã bao lần tuôn rơi vì ngộp thở trong sợi dây vô hình của nợ, của duyên.

Lâu lắm rồi, sáng nay những kỷ niệm xưa mới chợt ùa về trong tâm trí của Tâm, Tâm thấy nhớ mái chùa xưa, nhớ Sư phụ, nhớ mấy huynh-đệ cùng một thời làm tiểu với mình nữa, những người mà đã từng cùng Tâm “vào sinh ra tử”, cùng ngồi cạnh bên nhau cất cao bài kệ hòa trong tiếng chuông vang rền cầu nguyện thiêng liêng:

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới

Xa xôi tăm tối cũng đều nghe

Những ai lạc bước mau dừng lại

Tỉnh giấc hôn mê thấy nẻo về.

Đọc đến đây tự nhiên Tâm khóc, Tâm thấy nhớ lắm, nhớ những gì mà Tâm đã từng một thời nguyện ước, một thời hứa hẹn trước lúc xin mẹ đi tu – rồi cái ngày mà Tâm báo cho mẹ biết là mình đã hoàn tục – Tâm đã thấy mẹ khóc, mẹ đã khóc thật nhiều, khóc như là lúc mà mẹ đã quyết định cho Tâm đi tu vậy. Giọt nước mắt lăng dài trên khuôn mặt khắc khổ của mẹ và tình thương cao cả đó đã luôn khắc sâu vào trong tâm trí của Tâm.

Tâm cứ nhớ hoài lời mẹ nói: “Cho dù con có là nhà sư hay là ai đi chăng nữa thì vẫn mãi là con của mẹ – mẹ không bao giờ bỏ con đâu – Tâm à”. Nói đến đây mẹ của Tâm nghẹn lời mà khóc trong điện thoại và không nói được lời nào nữa khi nghe Tâm gọi điện báo tin như thế.

Nhưng Tâm phải biết làm sao, vì lòng của Tâm cũng đau như cắt, vì Tâm thương mẹ nhiều lắm, thương cả ba và mấy đứa em nhỏ ở nhà nữa, vì cũng lâu lắm rồi Tâm cũng chưa có dịp về thăm lại mấy đứa nhỏ, đứa nào cũng bảo là hãnh diện về anh trai đi tu của nó nhiều lắm, về một nhà sư hiền lành, đức hạnh mà trong xóm nghèo ai cũng thương cũng quý.

Rồi mấy đứa nhỏ ai cũng khóc khi nghe tin anh trai đã hoàn tục, tụi nó tức giận bảo với mẹ trong điện thoại là không được cho anh trai trở về nhà, đuổi anh trai đi luôn đi - vì tụi nó nói là không có người anh như thế.

 

Nghe đến đây, Tâm chỉ biết nói lời sau cùng trong ức nghẹn: - Mẹ ơi! Các em ơi! Hãy tha thứ cho con – cho người anh trai này. Rồi Tâm tắt máy ngồi bệt xuống đường đầy xe cộ qua lại.

Đúng là mẹ - mẹ thì lúc nào cũng bao dung, cũng độ lượng, và thương con với một thứ tình thương vô điều kiện, nhưng còn mấy đứa em, mấy đứa nó đâu có tha thứ, đâu có chấp nhận anh trai của nó. Vì nó bảo hồi đó đã một lần khi anh xin mẹ đi tu – mẹ đã khóc rất nhiều và mẹ đã nén lại nỗi đau của riêng mình để chấp nhận hy sinh cho anh ra đi với niềm hy vọng là anh sẽ trở thành một nhà sư biết dấn thân phụng sự cuộc đời – điều mà đã làm cho mấy đứa em đã từng hãnh diện khi nghĩ về anh như thế.

Nhưng nay, mọi thứ dường như đã khác đi - lại một lần nữa anh lại làm cho mẹ phải buồn, phải khổ như vậy nên mấy đứa em nói với lòng là sẽ không chấp nhận anh nó nữa.

Còn Tâm biết phải làm sao, giữa đôi đường đạo – đời tuy rất gần nhưng cũng rất xa, xa như những tinh tú, những vì sao vời vời trên bầu trời cao cô đơn đang lấp lóe những ánh sáng nhỏ nhoi sau cùng khi trời vừa hừng sáng để soi chiếu vào hành tinh bé nhỏ đầy đơn côi này.

Đúng là duyên, duyên là định luật, hay là thứ phép mầu nào vậy mà có thể đủ sức biến hóa hay điều khiển con người ta phải đi theo một chu trình như được định sẳn của mỗi con người để rồi ta cũng chính nhờ đó mà có cái để đỗ thừa cho mọi thứ với một chữ duyên tròn trịa.

Nhưng rồi thời gian hay nỗi đau nào cũng dần phai nhòa và thấm thoát trôi qua, sau một thời gian vòng quanh giữa đời - nay Tâm đã có vợ - có con, nói không phải khoe, chứ Tâm có đứa con gái kháo khỉnh thật dễ thương, nó thương cha nó như tình thương mà hồi đó Tâm thương mẹ Tâm vậy. Ngày nào Tâm cũng phải đưa con đi học và đón về, còn vợ Tâm – người con gái mà đã làm cho Tâm được nếm trải vị ngọt bùi của tình yêu và say nồng trong men đắng.

Tâm cũng thương vợ nhiều lắm, nhưng quả thật cuộc đời này nó không đơn giản như những gì mà Tâm đã từng nghĩ, từng ước mong, vì Tâm như hạt bồ đề đang vừa bị rơi ra khỏi thân và cội của nó để nằm trơ trọi một mình giữa đất khô cằn cỗi.

Tâm thất vọng, Tâm chán chường, Tâm cũng nhiều lần hận lấy cuộc đời này lắm – vì nó quá trơ trẽn, phụ bạc và hai lòng để Tâm phải dần dần tập thích nghi và sống với nó, điều mà trước kia đối với Tâm là một tội lỗi mà nay nó đã trở thành bản năng, bản năng để sinh tồn và để vì con.

Rồi cũng từ đó, cơn nước lớn đã cuốn Tâm đi thật xa, Tâm đã khôn lanh hơn rất nhiều, Tâm nay đã hơn được rất nhiều người, Tâm có địa vị, có mưu mẹo để có thể kiếm ra thật nhiều tiền để có thể mang lại hạnh phúc cho gia đình.

Nhưng sao mỗi đêm về, Tâm lại cảm thấy cô đơn, một cảm giác cô đơn đến lạ kỳ, Tâm chỉ có thể nằm bên cạnh con để vuốt tóc cho nó ngủ thật ngon bên tình thương của cha nó và chắc cũng là cách để Tâm có thể chờ vợ về sau những cuộc vui.

Giận lắm, vì sao vợ Tâm lại coi thường Tâm đến thế, dù gì Tâm cũng là một người thành đạt, một người chồng tốt, hay có phải chăng là một kẻ khờ, một kẻ vụng dại không biết yêu và làm cho người mình yêu trở nên hạnh phúc.

Cứ thế, trong sự cô đơn và đợi chờ Tâm mới thấm thía thế nào cái mà gọi là mật ngọt của tình yêu, sao quá mong manh và lờ lợ đến thế, vì Tâm thừa biết vợ mình đã chán, chán lắm rồi, để bắt đầu cho cuộc tình mới với một người con trai mới mà giống như Tâm đã từng đón nhận trong niềm hạnh phúc để chấp nhận từ bỏ tất cả cũng chỉ vì cái cảm giác được yêu này.

Chưa bao giờ Tâm thấy mình cô đơn và bất lực khi mọi sự nỗ lực hàn gắn của mình đã trở nên chai lì và vô nghĩa.

Rồi Tâm chợt buồn, buồn lắm, Tâm không thể nào ngủ được nên vội ngồi dậy mồi cho mình điếu thuốc để mượn khói sương đưa hồn mình vào trong lãng du và quên lãng.

Giờ đây chỉ có màn đêm mới có thể thủ thỉ cùng Tâm và ru Tâm ngủ bên những luồng gió nhẹ đang đưa Tâm vào trong cơn say nồng của men rượu đắng, để Tâm quên đi tất cả, để Tâm được lạc vào một cảnh giới hoàn toàn khác mà trong đó Tâm có thể tìm lại cho mình những ký ức đẹp của một thời tuổi thơ.

Tâm mơ – Tâm mơ thấy mình đang thập thò, thẹn thùng và hồi hộp khép nép bên mẹ mà không dám mở lời xin mẹ đi tu, cứ thế mà Tâm cứ nói trong ấp úng đầy ngượng ngạo thật dễ thương:

-      Mẹ ơi! Cho con đi tu nha – rồi Tâm cười.

Mẹ Tâm vừa cười, vừa nói trong bất ngờ: - Trời, thằng cu Tí con tui nay muốn làm thầy thiêng hạ rồi ha – rồi mẹ vội ôm Tâm vào lòng trong niềm hạnh phúc.

Chợt Tâm thấy nhớ mẹ nhiều lắm, vừa trong cơn mơ mà Tâm vừa khóc, vừa kêu mẹ trong cơn say nồng, lẩm bẩm kêu:

- Mẹ ơi! Con nhớ mẹ nhiều lắm – mẹ có nhớ con không, con đang cô đơn lắm mẹ à! Con nhớ mấy đứa em nữa, mấy đứa nó đã tha thứ cho con chưa hả mẹ. Mẹ nói mấy đứa nó cho con về thăm mẹ nha mẹ - nói đến đây thì Tâm lại tiếp tục ngủ thiếp đi.

Rồi cũng chính trong cơn say nồng này, Tâm lại tìm thấy hình ảnh của tuổi thơ – Tâm thấy mình là một chú tiểu hồn nhiên và dễ thương đáng yêu của thuở nào, vì rằng hồi đó Tâm nổi tiếng là đẹp trai nhất chùa, nên ai cũng thương Tâm hết mực mà nhất là Sư phụ, sư phụ lúc nào khen là Tâm học giỏi, đạo hạnh và luôn hãnh diện về Tâm, rồi đến cái ngày mà Tâm được đắp y Sa-di, sư phụ là người hạnh phúc nhất khi nhìn thấy Tâm với khuôn mặt sáng trưng trong màu y vàng lấp lánh như một vị Bụt hiện thân vậy.

Sư phụ cứ cười miết, đi đâu cũng cười cũng hoan hỷ trong niềm tự hào về một người đệ tử như thế, rồi thầy cứ ghẹo: - Chú Huệ Tâm sau này mà lớn lên chắc tôi phải đi theo canh chừng mấy con cọp hai chân cho chú quá, kẻo không là nó tha về tổ mất - Rồi thầy cười to ghẹo chọc còn Tâm thì ngượng ngùng mắc cỡ.

Vậy mà mới đó thôi cũng chính sư phụ là người đau buồn nhiều nhất khi nghe Tâm đảnh lễ xin trả y áo lại để hoàn tục, và đây cũng là lần đầu tiên trong đời mà Tâm thấy sư phụ khóc, sư phụ khóc trong sự tế nhị của một vị tu hành lớn tuổi, khóc vì thương, thương cho một người đệ tử mà mình đã từng đặt nhiều kỳ vọng ở nó, thương cho cuộc đời nó rồi sẽ ra sao giữa muôn trùng sóng gió và cạm bẫy ngoài đời đang rình rập phía trước – nghĩ đến đây sư phụ của Tâm vội quay lưng lấy chiếc y của Tâm trả lại mà lau đi dòng nước mắt đang chảy ngược vào trong.

Mơ đến đây, Tâm chợt giật mình tỉnh giấc buồn rượi rượi, vì Tâm cũng nhớ sư phụ, nhớ mấy huynh-đệ nhiều lắm. Vì cũng đã lâu lắm rồi, Tâm đâu có dám bước chân về thăm lại mái chùa xưa, vì Tâm ngại, Tâm mắc cỡ với thầy, với huynh-đệ, với Phật tử.

 

Nhưng thôi! Cuộc đời mà có ai biết trước được chữ duyên là thế, đôi khi cũng chính trong những nỗi đau thương và thất vọng nhất của đời mình, thì khi đó con người ta mới trở nên cứng cõi và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Nghĩ đến đó, Tâm vội ngồi dậy bước vào phòng thăm lại đứa con thân yêu của mình, Tâm hôn trên trán con và vuốt tóc nó như lần sau cùng để từ biệt, Tâm nói: - Con yêu, ba xin lỗi con.

Rồi Tâm quẩy trên vai cái cặp xách và mấy bộ đồ để ra đi, Tâm sẽ về thăm mẹ - thăm mấy đứa em – Tâm cũng sẽ ghé về thăm Sư phụ - thăm mấy huynh-đệ và thăm lại những người Phật tử mà ngày xưa mà đã từng kỳ vọng ở Tâm, ở một nhà sư hiền lành đức hạnh.

Vừa bước chân ra khỏi cổng, Tâm vội đưa mắt nhìn lại ngôi nhà, nơi mà Tâm đã xây dựng nên bằng mồ hôi và nước mắt, với một tổ ấm, một tình yêu của hai con người mà chỉ mới đây thôi đã từng hứa hẹn thật nhiều điều với nó, về tương lai, về một tình yêu bền vững, rồi Tâm thầm trách, thầm hận lắm con người phụ bạc đó và hận cả chính mình nữa.

Rồi Tâm tự nói với lòng: - Tâm sẽ ra đi, đi thêm một lần nữa. Vì chắc rằng cái duyên, cái nợ của Tâm nay đã xong.

 

GIÁC MINH LUẬT

San Diego - Hoa Kỳ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5590)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5504)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6904)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4288)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9118)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5456)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5075)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5670)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6156)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5167)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]