Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vai trò hộ pháp và hoằng pháp trong thời hiện đại

26/04/201707:24(Xem: 9498)
Vai trò hộ pháp và hoằng pháp trong thời hiện đại




phat-ngoc_111


Vai trò hộ pháp và hoằng pháp trong thời hiện đại



Theo truyền thống Phật giáo Bắc tông hay còn gọi là Phật giáo phát triển trong thời đại hôm nay, đời sống của hàng xuất gia không dựa trên pháp khất thực như ngày xưa nữa, mà phải tự túc sinh hoạt dựa trên sự cúng dường của hàng cư sĩ tại gia.

Chùa chiền ở các nơi phải bắt đầu tích trữ của cải vật chất để phục vụ đời sống Tăng Ni và thậm chí nhiều chùa còn chia sẻ của cải ấy cho nhiều gia đình đang gặp hoàn cảnh thiếu thốn, khó khăn. Cư sĩ không phải cúng thức ăn hàng ngày mà thường hộ pháp qua việc cúng dường tài vật để chùa tự sắp xếp lo liệu.

Sự hộ pháp của hàng cư sĩ tại gia ngày hôm nay cũng tùy theo phước duyên của mọi nơi. Thứ nhất, hộ pháp về đời sống sinh hoạt của Tăng Ni thường phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chùa và cư sĩ hơn là nhu cầu thực tế của chùa ấy. Ở chùa nào thầy trụ trì có năng lực và biết cách thu hút Phật tử, thì chùa ấy sung túc đầy đủ hơn về mọi mặt.

Thứ hai, hộ pháp thông qua sự cúng dường xây dựng chùa tháp, tượng Phật, Bồ tát. Có nhiều nơi xây dựng chùa to Phật lớn với quy mô hoành tráng trong thời gian ngắn, ngược lại một số chùa xây dựng đã nhiều năm mà vẫn không thể hoàn thành. Đó là do phước duyên của nơi đó, không thể luận bàn chính xác được.

Thứ ba, hộ pháp bằng cách truyền bá lời Phật dạy thông qua dịch kinh, giảng dạy, xuất bản kinh sách, băng đĩa… trên thực tế chưa được phổ biến rộng rãi. Xa hơn nữa là nghiên cứu phương cách đưa đạo Phật đến các vùng xa xôi của đất nước bằng phương tiện giảng dạy, ấn tống kinh sách, băng đĩa.

Hội đồng Liên Hiệp Quốc tôn vinh đạo Phật và công nhận ngày Đản sanh của Đức Phật là ngày lễ quốc tế bởi sự đóng góp to lớn của Đức Phật vào trong đời sống con người.

Để đảm bảo việc hộ pháp và hoằng pháp đạt được kết quả tốt đẹp, lòng tin đối với Tam bảo là yếu tố quan trọng đối với người Phật tử tại gia, đó là chất liệu sống làm nền tảng cho sự học hỏi, nghiệm xét và thiền tập. Người có niềm tin chân chính đối với Tam bảo, thích gặp thầy lành bạn tốt học hỏi và tu sửa, để ngày càng hoàn thiện chính mình.

Niềm tin của những người Phật tử, theo tuệ giác của Thế Tôn, luôn song hành với hiểu biết và trí tuệ. Muốn tin sâu, và có niềm tin chân chính chúng ta phải học hỏi, suy nghiệm xem xét và áp dụng hành trì, nhờ vậy mới phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật.

Khi chúng ta có hiểu biết chân chính, thấy được chân lý cuộc đời biết rõ thật giả phân minh, nên chúng ta dùng trí tuệ để soi sáng chuyển hoá tham lam luyến ái, sân giận, ganh ghét, tật đố, ích kỷ và ngu si. Sống là cho đi, là giúp đỡ, là đóng góp, để mọi người cùng thương yêu nhau bằng trái tim hiểu biết.

Trên phương diện hoằng pháp độ sinh giúp đỡ người khác thấm nhuần Phật pháp, trước tiên người cư sĩ phải văn, tư, tu nghe rồi quán chiếu suy nghiệm lời Phật dạy để rồi ứng dụng tu hành. Bản thân mình ứng dụng Phật pháp được an vui hạnh phúc và lấy đó làm hành trang để hướng dẫn gia đình người thân, cùng tất cả mọi người là trách nhiệm của hàng cư sĩ tại gia.

Phương thức hoằng pháp của người cư sĩ tùy theo hoàn cảnh, khéo uyển chuyển linh động, không nhất thiết là phải thăng tòa thuyết giảng. Với người cư sĩ tại gia, nếu chúng ta biết vận dụng tứ nhiếp pháp như bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự vào trong đời sống hằng ngày, thì lợi ích rất lớn trong lãnh vực hoằng pháp lợi sinh.

Chúng ta ai cũng biết, hoằng pháp là đem lời dạy của Phật-đà lưu truyền khắp mọi nơi để mọi người, tin sâu nhân quả mà biết làm lành lánh dữ nhằm hoàn thiện bản thân mình.

Người Phật tử tại gia trong thời hiện đại dễ hoằng pháp hơn thời xa xưa,  nhờ thông tin Phật pháp rộng rãi được biên soạn dịch thuật đầy đủ. Tuy nhiên, muốn hoằng pháp lợi sinh, người cư sĩ tại gia cần phải thông hiểu Phật pháp.

Người Phật tử chân chính phải biết chung vai gánh sức với chư Tăng, Ni làm cho ngôi nhà Phật pháp được phát triển bền vững và lâu dài, bằng niềm tin sâu sắc về nhân quả, phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại con người.

Sau khi biết rõ kinh sách, băng đĩa nào đúng chánh pháp thì ta phải phát tâm ấn tống, đến với những người có duyên lành với chúng ta. Hộ trì Tam bảo và hoằng pháp là việc làm chân chính và quan trọng của người Phật tử tại gia, giúp cho chùa chiền được phát triển và lời dạy của Phật-đà được phổ biến rộng rãi trong nhân gian.

Trách nhiệm của người hộ pháp và hoằng pháp, là để giúp cho mọi người tin sâu nhân quả, làm thiện tránh ác, giữ tâm ý trong sạch và cuối cùng là thành Phật viên mãn.



Thich_Dat_Ma_Pho_Giac

Cùng 1 tác giả

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5201)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5624)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4482)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5075)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4637)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5336)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4823)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9535)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4916)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4150)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]