Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thực hành Phật Pháp tại Úc

02/04/201718:08(Xem: 8271)
Thực hành Phật Pháp tại Úc


Khoa tu ky 16-group tung chua (22)



Vấn đáp về thực hành Phật pháp tại Úc châu

(từ học viên người Việt trong Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 16 tại Kyneton,

Victoria, Australia từ 29 tháng 12/2016 đến 2 tháng 1/2017

 

Trả lời: Cư Sĩ Andrew Williams

Việt dịch: Thích Phước Thiệt

 


Day5-le-be-mac-khoa-tu-ky16-144

Thầy Andrew Williams (pháp danh: Bát Nhã) trao phần thưởng
cho các em học sinh xuất sắc trong Khóa Tu Học Phật Pháp Úc Châu kỳ 16 (12-2016) vừa qua



1) Xin ngài cho biết thuyết tái sanh trong Phật giáo làm việc như thế nào?

 

Trà lời: Tất cả những kinh nghiệm về thân và tâm của chúng ta, trong đời nầy cũng như đời quá khứ và tương lai, đều do hành động (nghiệp) của thân khẩu ý trong quá khứ và hiện tại. Hành động lành đem đến kết quả mong muốn, sự tái sanh và đời sống tốt đẹp. Trong khi đó hành động xấu ác đem đến hậu quả bất thiện, sự tái sanh và đời sống bất hạnh. Chúng ta sẽ liên tục tái sanh theo nghiệp báo, trong vòng luân hồi, cho đến khi nào đạt được sự giác ngộ tối hậu.

 

2) Khi chúng ta cầu nguyện, là cầu nguyện với ai? Và những lời cầu nguyện của chúng ta có ý nghĩa gì?

 

Trà lời: Khi ta cầu nguyện với Phật và Bồ-tát, là chúng ta làm cho tâm thức mình hòa hợp với Phật pháp. Để ta có thể thanh lọc tâm ý và vui vẻ, hăng hái thực hành giáo pháp một cách đúng đắn, với thiện chí.

 

Chúng ta phải hết sức cố gắng cầu nguyện và tụng đọc các bài thơ để tôn vinh, qui y, v.v.., cũng như những giáo lí quan trọng của đức Phật, và ghi vào kí ức, để có thể nhớ lại bất cứ lúc nào và ở đâu.

 

Chúng ta phải suy tưởng nghĩa lí để có thể hiểu biết chính xác về các giáo pháp vô giá, rồi tập cho tâm chúng ta quen thuộc để có thể thấu đáo ý nghĩa của các từ, các bài thơ và giáo lí mà chúng ta tụng đọc.

 

Khi tỉnh giác để tụng thơ và giáo pháp, là chúng ta dùng toàn thân và toàn tâm ý.

 

Dĩ nhiên tâm là chủ, bởi vì tâm sẽ thấu hiểu và thực hành mục tiêu, phương pháp để đạt được kết quả.

 

Các bạn phải học tập, tụng đọc, thực hành và chia sẻ Phât pháp cho tốt, để cuối cùng có thể thấu hiểu và thực hiện sự hợp nhất và hoàn thiện giữa sự minh triết và phương pháp, và đạt được sự giác ngộ tối thượng,

 

3) Ngài có bao giớ yêu ai chưa?

 

Trà lời: Có, vài lần hồi thời tôi còn rất trẻ, nhưng chỉ là tạm thời. Tình yêu loại nầy không bền. Tất cả những pháp tùy thuộc điều kiện, như là tình yêu trai gái, luôn luôn thay đổi. Thật ra, các bạn cần lưu ý là có mhiều loại tình yêu khác nhau: tình thương của cha mẹ, tình yêu trai gái, tình yêu thân thuộc, tình yêu chiếm hữu và tình yêu vô điều kiện. Ba loại tình yêu cha mẹ, thân thuộc và chiếm hữu - tùy thuộc đìều kiện và không bền. Tình yêu vô điều kiện (lòng Từ), cũng gọi là tình thương đại đồng hay tình thương vô hạn, là loại tình thương mà ta phải hoàn thiện trong Phật giáo. Đó là tình thương và sự quan tâm muốn cho tất cả chúng sanh, không trừ ai, có được hạnh phúc và nguyên nhân của hạnh phúc, và tất cả đều đạt được giác ngộ.

 

4) Từ nay về sau, khi điều trị cho bịnh nhân, làm sao con có thể áp dụng Phật pháp để được lợi ích?

 

Trả lời: Tất cả những khía cạnh của Phật pháp đều có lợi ích trong khi con điều trị cho bịnh nhân. Thí dụ như sự minh triết và thông cảm, đi chung với lòng từ bi thật sự, sẽ giúp ích nhiều cho con khi đối xử với cá tính và điều kiện bịnh lí của bịnh nhân, cũng như trong việc khám bịnh, tiền chẩn, điều trị và chương trình điều trị, v.v... Hơn nữa, bàn thân con và bịnh nhân đều được lợi ích nếu con thực hành Sáu ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định vá trí huệ.

 

4) Phật pháp sẽ hướng dẫn cho con khi con hướng dẫn bịnh nhân. Hãy giữ cho tâm con an tịnh và trong sáng, không bức xúc hay lo âu, và giữ vững thiện chí của mình.

 

5) Tốt hay xấu đều là tương đối, thí dụ như đối với người khủng bố nổ bom tự sát, thì họ nghĩ việc làm của họ là tốt, nhưng đối với người khác thì trái lại. Vậy làm sao  ta có thể biết việc nào là tuyệt đối đúng - khi người nầy nói đúng, người khác nói không?

 

Trà lời: Đức Phật nói: "Chúng ta là tư tưởng của mình. Tất cả đều phát sinh từ tư tưởng, Vời tư tưởng chúng ta tạo ra thế giới. Nói năng và hành động với tư tưởng trong sạch, hạnh phúc sẽ theo sau như bóng theo hình, không bao giờ thay đổi."

 Như vậy, chúng ta phải phát ngôn và hành động với tâm thanh tịnh, tránh nói năng và hành động với tâm xấu ác. Chúng ta cần có đức tin và sự tự tin để có thể sống như thế.

 

6) Con là Phật tử tại gia, làm sao con có thể dung hòa sự ham muốn thành công của thế tục với quan niệm về nếp sống chánh đáng (chánh mạng). Đôi khi sự theo đuổi thành công trong nghề nghiệp có vẻ phàm tục và chạy theo vật chất. Có thể nào con vừa là Phật tử thuần thành vừa là người thành công trong nghề nghiệp, hay không?

 

Trả lời: Dĩ nhiên con có thể vừa là Phật tử tốt vừa có nghề nghiệp thành công.Chánh mạng (cách sống tốt) nghĩa là tránh buôn bán những gì có hại. Thí dụ như: không được buôn bán: 

a) Người (nô lệ, đĩ điếm và những thứ như thế)  

b) Thịt (nuôi súc vật để giết thịt và những thứ như thế)

c) Chất say (rượu và ma túy)

d) Chất độc

e) Vũ khí

Ý định của chúng ta là điều quan trọng nhất. Do đó phải duy trì thiện chí và luôn nhớ rằng đạo đức có giá trị hơn lợi dưỡng. Hay nghe tiếng nói của lương tâm và lương thiện với chính mình - và nếu có nghi ngờ, thì con hãy hỏi ý thiện tri thức  như là vị đạo sư của con, để được hướng dẫn.

 

7) Ngài là tăng sĩ đang giảng dạy Phât pháp, xin ngài giới thiệu cho con những phương cách để chiến thắng những thứ như sự hốt hoảng và sự lo âu. Làm sao con đối phó với những tình huống khi những cảm xúc nầy nổi lên, có cách nào để giảm thiểu và phòng ngừa những tình huống và cảm xúc như thế?

 

Trả lời: Trước hết, Thầy xin đề nghị con nên đọc đề mục: "Sự lợi ích của thiền định - Hãy tìm hiểu tự tâm" trên Trang Nhà Quảng Đức, cả tiếng Việt và tiếng Anh ở địa chỉ quangduc.com. Con phải thực hành thiền định. Trong đề mục đó có hướng dẫn về Thiền định, chắc chắn sẽ rất có ích cho con.

 

Chúng ta có liên hệ mật thiết với thiên nhiên. Con phải biết điều nầy hết sức quan trọng. Nếu hiểu điều nầy thì chúng ta có thể chung sống với chúng sanh và thiên nhiên một cách hòa bình và tương hợp. Phần nhiều các sự lo âu, bất mãn, bức xúc và cảm giác bất hòa đều phát sanh từ sự thật hiển nhiên nầy. Chúng ta cần mở rộng tâm mình để bớt đi tánh ích kỉ.

 

Hãy lấy thí dụ một máy ảnh. Khi nó được điều chỉnh để chụp gần, thì những gì ta thấy là trong tầm gần mà thôi. Điều nầy giống như tánh ích kỉ của ta. Chúng ta chỉ nghĩ tới mình, những vấn đề và bất mãn của mình, những điều mình thích và không thích và vân vân. Tới mức nầy thì những thứ đó là toàn bộ vũ trụ, không còn gì khác hiện hữu hay là quan trọng nữa.

 

Nhưng nếu chúng ta mở rộng và điều chỉnh ống kính theo tầm xa, thì sẽ thấy được tất cả những gì theo tầm nhìn xa rộng. Như thế chúng ta sẽ có cơ hội để phát triển sự hiều biết chính mình, người khác và tất cả thiên nhiên, do đó ta sẽ được bình an với chính mình và tất cả những gì chung quanh ta.

 

8) Mổi sáng khi đọc tin tức, con thấy có nhiều tường trình về chiến tranh và tan phá xảy ra trên khắp thế giới. Điều nầy làm cho con cảm thấy thất vọng, bất lực và phần nào cảm thấy mình có lỗi vì sự thanh bình tương đối mà con đang có được. Làm sao con có thể chuyển đổi những cảm xúc buồn bã, tức giận và bất lực nầy thành những gì lợi ích và có tính sáng tạo?

 

Trả lời: Trước hết Thầy phải nói là con rất tốt bụng và đáng khen khi con quan tâm đến sự an nguy của người khác. Tuy nhiên, con phải cố gắng thay thế những cảm xúc buồn bã, tức giận, bất lực và tội lỗi của con - bằng lòng từ bi và ý thức trách nhiệm đặt cơ sở trên sự hiểu biết chơn thật.

 

Khi một viên sỏi được ném xuống hồ, những gợn sóng lan ra khắp cả mặt hồ, cũng như vậy tất cả hành động tư tưởng và lời nói của chúng ta sẽ ảnh hưởng đến tất cả.

 

Do đó, chúng ta phải tư tưởng, hành động và phát ngôn với tình thương đại đồng, lòng bi mẫn và hỉ xả. Như thế, chúng ta có thể đóng góp cho hòa bình thế giới và có ảnh hưởng tìch cực để người khác noi theo.



Xem nguyên bản tiếng Anh:

Questions about practicing Buddhism in Australia






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5612)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9148)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5477)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5108)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5703)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6197)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5203)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]