Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa

31/03/201716:48(Xem: 9301)
Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa
 
Nhi To Phap Loa
 


Bài 1:

htthanhtu

Nhân giỗ đệ nhị tổ Pháp Loa
nhớ về tam tổ sư thiền và biết ơn Hòa thượng Thích Thanh Từ



Mồng 3 tháng 3 là ngày giỗ của đệ nhị tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - thiền sư Pháp Loa. Thật dễ nhớ cho những ai học Phật và thực hành thiền rằng giỗ tổ Pháp Loa đúng 1 tuần trước giỗ tổ Hùng Vương mồng 10 tháng 3. Là người hành thiền, tôi luôn rất biết ơn các thiền sư nhất là các thiền sư Việt Nam, trong đó có thầy Khương Tăng Hội và tam tổ sư thiền Trúc Lâm.

Thiền sư Pháp Loa là đệ tử của sơ tổ thiền phái Trúc Lâm Yên tử Điều ngự Giác hoàng – Hương vân Đầu đà. Ngài tên thật là Đồn Kiên Cường, sinh năm 1284, quê ở làng Cửu La, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cha Ngài là Đồng Thuấn Mậu, mẹ là Vũ Từ Cứu.

Có một chi tiết mà không mấy người biết rằng trước khi sinh ra Ngài, mẹ Ngài đã sinh 8 người con gái nên chán nản. Đến Ngài, bà uống thuốc và dùng nhiều cách phá thai nhưng không được. Khi sinh ra Ngài mới đặt tên là Kiên Cường. Ngài điềm tư, dĩnh ngộ, không thích ăn thịt cá, miệng không nói ác, thân không làm việc xấu từ nhỏ.

Đến 21 tuổi, Ngài có duyên lành gặp Điều ngự Giác hoàng đi phá dâm từ trà. Thế là Ngài xin xuất gia.  Ngài được chấp nhận và được cho hiệu Thiện Lai và được xuống tóc thọ giới sa di. Đó là năm 1304, niên hiệu Hưng Long thứ 12.

Có một chi tiết rất quý giá: Ngài theo hầu Điều ngự Giác hoàng và có đem trình 3 bài tụng của mình. Tuy nhiên tất cả bị Điều ngự Giác hoàng chê. Ngài thưa trình bao nhiều lần thì bấy nhiêu lần bị chê. Điều ngự Giác hoàng dạy rằng phải tự tham. Đầu óc ngài nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống, Ngài chợt đại ngộ. Ngài mang lên trình Điều ngự Giác hoàng thì liền được ấn khả. Từ đó Ngài theo Tổ chuyên tu mười hạnh đầu đà.

Đến niên hiệu Hưng Long thứ 13, tức năm 1305, Điều ngự Giác hoàng đem Ngài lên liêu Kỳ Lân cho thọ giới tỳ  kheo và Bồ tát giới. Thấy Ngài đã tham học thành đạt, Tổ cho hiệu là Pháp Loa.

Năm Hưng Long thứ 14, tức năm 1307, khi Ngài 24 tuổi, Điều ngự trụ ở am Thiên Báo Quan. Lúc đó Tổ có đến bẩy tám thị giả nhưng Ngài đứng đầu. Vì Ngài mà khi đó Tổ giảng Đại Huệ Ngũ Lực. Đến tháng 5, Điều ngự lên ở am trên đỉnh Ngọa Vân Phong, nhằm ngày rằm, sau khi Tổ làm lễ tụng giới (lễ Bố Tát) xong liền đuổi các sư khác xuống núi, lấy y bát ra và viết Tâm Kệ trao cho Ngài, dạy khéo giữ gìn.

Năm Hưng Long thứ 16 tức 1308, đúng ngày mồng 1 tháng giêng, Ngài vâng lệnh Điều ngự Giác hoàng làm lễ nối pháp trụ trì tại nhà Cam Lồ, chùa Siêu Loại. Tham dự khai lễ có vua Trần Anh Tông và thần triều đến dự. Điều ngự Giác hoàng lên đàn thuyết pháp rồi nhường chỗ cho Ngài giảng đạo. Lễ xong, Điều ngự Giác hoàng đặt Ngài kế thế trụ trì chùa Siêu Loại và làm chủ sơn môn Yên Tử, thành tổ thứ 2 của phái Trúc Lâm. Điều ngự Giác hoàng còn trao cho Ngài hơn 200 bộ kinh sử và bảo vua Trần Anh Tông sung cúng vào chùa cả trăm khoảng ruộng.

Tháng 11 năm 1308, Điều ngự Giác hoàng viên tịch, Ngài cung nghinh xá lợi Tổ về kinh đô. Sau đó, trở về lại núi, Ngài dành thời gian soạn lại những bài tụng của Điều ngự Giác hoàng lúc Tổ ở Thạch Thất làm thành quyển Thạch Thất Mị Ngữ.

Năm Hưng Long thứ 19 tức năm 1311, Ngài phụng chiếu tiếp tục khắc bản Đại Tạng Kinh. Ngài giao cho sư Bảo Sát làm việc này. Tháng 4 năm 1311, Ngài giảng Truyền Đăng Lục tại chùa Siêu Loại. Sau đó ngài Huyền Quang trình các kiến giải của mình. Tất cả Ngài đều chấp thuận.

Năm Hưng Long thứ 21 tức năm 1313, váo tháng 9, Ngài phụng chiếu đến chùa Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang định chức cho tăng đồ. Chúng tăng ở đây mới có sổ bộ. Chính Ngài là người cầm sổ bộ ấy. Lúc đó Ngài độ cho khoảng hơn một ngàn vị tăng. Về sau, cứ 3 năm 1 lần, Ngài lại độ như thế.

Năm Đại Khánh tứ 4 tức năm 1317, đời vua Trần Minh Tông, vào tháng 2, Ngài lâm bệnh nặng. Ngài đem y của Điều ngự Giác hoàng và viết bài Tâm Kệ trao cho thầy Huyền Quang, pháp khí và gậy trao cho thầy Canh Ngung, phất tử trao cho thầy Cảnh Huy, gậy tre trao cho thầy Huệ Quán. Pháp thơ  và pháp cụ trao cho thầy Huệ Nhiên, linh vàng trao cho thầy Huệ Chúc. Sau đó ít lâu, Ngài lành bệnh.

Các vị thái hậu, công chúa, vương công, quý khanh thời đó đều thỉnh Ngài về truyền giới xuất gia hoặc Bồ Tát giới. Ngay cả vua Trần Anh Tông cũng thành đệ tử của Ngài. Họ cùng cúng đất, vàng, tiền để Ngài lập chùa, đúc tượng Phật, in kinh. Quá nhiều đến mức Ngài phải xin giảm dần những sổ quyên cúng. Thuyền của vua cấp để Ngài tiện việc đi lại và về Kinh đô Ngài cũng từ chối không nhận.

Năm đầu Khai Hựu tức 1329, đời vua Trần Hiến Tông, Ngài mở thêm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn làm thành danh lam thắng cảnh.

Ngày mồng 1 tháng 3, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh Ngài và cho gọi thái y đến trị bệnh cho Ngài. Đến tối mồng 3 tháng 3, Ngài trở bệnh nặng và viên tịch.

……….

Đầu ngày mới, sau thời thiền sớm mai, tôi ngồi xem lại sách “Thiền sư Việt Nam” của Hòa thượng Thích Thanh Từ mà thấy xúc động về Nhị Tổ Pháp Loa quá. Thời gian đến giỗ Ngài chỉ còn tính bằng giờ. Tôi ngồi trầm lặng nghĩ về Tam Tổ Trúc Lâm và trong lòng, niềm biết ơn Hòa thượng Thanh Từ trào dâng.

Sơ Tổ Trúc Lâm, Phật Hoàng Trần Nhân Tông sinh thời có 2 đệ tử nổi bật là tôn giả Pháp Loa và tôn giả Huyền Quang. Ngài Pháp Loa xuất thân từ dân giã, ít học còn ngài Huyền Quang là một người có học, kiến thức yên thâm, đậu tiến sỹ và làm quan triều Trần. Tôi ngồi và ngẫm nghĩ, tại sao Sơ Tổ Trúc Lâm lại chọn Ngài Pháp Loa xuất thân từ tầng lớp dân giã, ít học để truyền ngôi vị tổ. Hơn nữa khi được trao y bát, Nhị Tổ Pháp Loa mới hăm bốn hăm lăm tuổi, còn rất trẻ. 

Rõ ràng học nhiều, đôi khi lại là sở tri chướng. Và ngẫm lại tôi thấy mình đang đi đúng: đã và đang dành nhiều thời gian cho hành thiền.

Ngẫm lại thấy Nhị Tổ nhận y bát trao truyền từ Sơ Tổ đúng tuổi của Lục Tổ Huệ Năng, Tổ thứ 6 của Trung Quốc. Tuổi tuy trẻ nhưng tài cao về cả pháp thiền lẫn lãnh đạo tăng chúng. Ngài thật xứng đáng được tin tưởng và trao truyền.

Tự nhiên tôi nhớ lại lời Phật dạy rằng đừng coi thường con rắn nhỏ, ngọn lửa nhỏ và nhà sư trẻ.

Viết đến đây tôi chợt giật mình ngẫm nghĩ về đường lối thực hành tham tổ sư thiền. Rằng người tham tổ sư thiền cần chú ý phá chấp, cần phân biệt hồ nghi và chánh nghi, chẳng cho khởi biệt niệm, phải biết nghi là nhân, ngộ là quả, chẳng nên phân biệt tư cách, phải tin tự tâm, phải ngộ tự tánh, nên tránh lọt vào vô ký không, phải chú tâm tu hành qua 4 giai đoạn là tín, giải, hành, chứng, và phải chú trọng thực hành.

Tôi ngồi tĩnh tâm đầu giờ sớm  mai và nhớ về những lần được trực tiếp gặp Hòa thượng Thích Thanh Từ, được Hòa thượng từ bi chỉ bảo và hướng dẫn thiền. Tôi vẫn nhớ như in câu chữ và hình ảnh của Hòa thượng dạy tôi “Đây, nhìn chỗ này này”. Thật là quý giá. Thật là may mắn.

Mỗi lần được bên Hòa thượng Thích Thanh Từ là tôi thấy hạnh phúc và bình an vô cùng. Tôi học được rất nhiều từ Hòa thượng. Mỗi lần gặp là nhiều câu chuyện và nhiều bài học. Có lẽ đủ để viết 1 cuốn sách. Nói thật rằng tôi biết đến thiền 1 cách đúng đắn chính là nhờ Hòa thượng thời đó.

Tôi biết ơn, thật sự thành tâm muốn biết ơn và ngàn vạn lần biết ơn Hòa thượng Thích Thanh Từ, người thầy yêu kính của tôi và chúng ta. Hòa Thượng Thích Thanh Từ là cao tăng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại, nhà hoằng pháp lớn, dịch giả và tác gia nổi tiếng về Phật học. Hòa thượng là  người có công dịch giải nhiều nhất về thiền tông, người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nếu không có Hòa Thượng rất có thể tôi chưa chắc đã biết nhiều về tam tổ Trúc Lâm, trong đó có nhị tổ Pháp Loa.

Tôi ngồi và nhớ lại những đóng góp của Hòa Thượng đối với thiền tông Việt Nam. Từ ngày tôi còn bé xíu, từ năm 1970, Hòa thượng Thanh Từ đã thành lập Tu Viện Chơn Không trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu và mở khóa tu Thiền đầu tiên với 10 thiền sinh. Sau đó chỉ 4 năm Hòa thượng đã thành lập Thiền Viện Bát Nhã và Linh Quang cũng tại Vũng Tàu. Rồi từ năm 1975 Hòa Thượng phát triển các thiền viện mang tên CHIẾU như Thường Chiếu (năm 1974), Viên Chiếu (năm 1975), Huệ Chiếu (năm 1979), Linh Chiếu (năm 1980), Phổ Chiếu (năm 1980), Tịch Chiếu (năm 1987), Liễu Đức (năm 1986),...

Nhân ngày giỗ tổ Pháp Loa, tôi lại càng nhớ đến công ơn của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, nhất là khi ngồi xem lại các tài liệu và hình ảnh của năm 1993 khi Hòa Thượng cho thành lập Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt; của năm 2002 khi Hoà Thượng cho trùng tu Chùa Lân và lập thành thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử; của năm 2005 khi Hòa Thượng cho dựng lập thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên.

Tôi ngồi tĩnh lặng và nhớ lại rằng đến năm 2013, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã xây dựng trên 60 thiền viện, thiền tự và trên 100 đạo tràng học Phật tu thiền theo thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Hơn thế nữa, theo tôi được biết, tại nước ngoài, Hòa thượng cho xây khá nhiều thiền viện. Riêng tại Hoa Kỳ đã có hơn 10 thiền viện, thiền tự, tại Canada có 2 thiền viện, tại Pháp có 1 thiền tự, tại Úc có thiền tự.

Tôi ngồi và nghĩ về việc hoằng pháp nước ngoài của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Tôi được biết Hòa thượng đã du hóa giảng pháp và hướng dẫn thiền tại các nước như Campuchia (năm 1950), Ấn Độ, Sri Lanka, Nhật Bản (năm 1965), Trung Quốc (năm 1993), Pháp (năm 1994, 2002), Thụy Sĩ (năm 1994), Canada (năm 1994, 2002), Indonesia (năm 1996), Hoa Kỳ (năm 1994, 2000, 2001, 2002), Úc (năm 1996, 2002).

Tôi ngồi và giật mình đọc lại con số rằng từ năm 1970 đến năm 2003 riêng tại Việt Nam, Hòa thượng dã quy y cho 75.260 Phật tử. Còn tại các nước ngoài, con số này là 9.600 Phật tử. Tổng số lên đến 84.860.

Con xin được thành tâm và chí thành chí kính đảnh lễ tam tổ Trúc Lâm nhân giỗ của nhị tổ Pháp Loa, mồng 3 tháng 3. Con xin được thêm một lần nữa thành tâm biết ơn Hòa thượng Thích Thanh Từ.

Con cũng mong chúng ta  cùng nhau tu tập, hành thiền, hành thiện, tích đức để hồi hướng đến Hòa thượng Thích Thanh Từ, để Hòa thượng mạnh khỏe, làm chỗ dựa, là nơi nương tựa cho chúng con, những thiền sinh sơ cơ, mới chập chững tập tu, tập thiền.

Cùng hành thiền thôi, trời sắp sáng rồi.

 

Tâm Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

Công ty sách Thái Hà



 




HT_Thanh_Tu_2
Bài 2:

 Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa nhớ 

về những lời dạy của Ngài và của Hòa thượng Thích Thanh Từ


Hôm nay, mồng 3 tháng 3, đúng ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa. Sau thời thiền sớm mai, tôi dành thời gian đọc về, nhớ về, niệm tưởng đến những lời dạy quý báu của Nhị Tổ Trúc Lâm cũng như của Hòa thượng Thích Thanh Từ, người đã có công làm sống lại thiền phái Trúc Lâm.

Chuyện rằng, một hôm mở hội thuyết pháp, Tổ Pháp Loa lên tòa và nói: “Đại chúng! Nếu nhắm thẳng vào đệ nhất nghĩa mà nói thì động niệm liền sai, mở miệng là lầm, làm sao mà xét? Làm sao mà quán? Hôm nay căn cứ vào dấu (non) thứ 2 mà nói, cũng không được thế ấy.

Rồi Ngài nhìn 2 bên và nói: “ Trong đây có người nào đầy đủ con mắt lớn chăng? Nếu có, hai cặp chân mày chẳng cần vén lên. Bằng không, bần đạo chẳng khỏi miệng nói ba hoa, đề ra những điều hủ mục, đáp những lời tạp nhạp. Chỉ vì các ông nhồi lại thành một khối hỗn độn. Lắng nghe! Lắng nghe!

Đại đạo rộng suốt nào có ràng buộc. Bản tánh lặng lẽ, không thiện không ác. Bởi do chọn lựa chợt sanh nhiều lỗi, vừa khởi mảy may đã cách xa trời đất. Phàm Thánh vốn đồng một mối, phải quấy đâu có 2 đường. Cho nên biết tội phước vốn không, cứu cánh nhân quả chẳng thật. Người người sẵn được, kẻ kẻ chọn thành. Phật tánh pháp thân như hình như bóng, tùy ẩn tùy hiện, chẳng tức chẳng ly. Lỗ mũi duỗi thẳng xuống, chân mày nằm ngang mặt, ở trên mắt mà không dễ gì nhìn thấy. Cần phải tìm xét, đâu chẳng nghe nói “ba ngàn pháp môn đồng về tấc vuông, hà sa diệu dụng đều ở nguồn tâm” nên nói: “cửa giới, cửa định, cửa huệ, ông không thiếu sót, cần phải quản quán nơi mình. Phàm những tiếng ho, tiếng tằng hắng, nhướng mày chớp mắt, tay cầm, chân đi, ấy là tánh gì? Biết được tánh này ấy là tâm gì? TÂM TÁNH rỗng sáng, cái nào phải, cái nào chẳng phải, Pháp tức là TÁNH, Phật tức TÂM. TÁNH nào chẳng phải là Pháp? TÂM nào chẳng phải là Phật? Tức TÂM tức PHẬT, tức TÂM tức Pháp. Pháp vốn chẳng phải Pháp, Pháp tức là TÂM. TÂM vốn chẳng phải TÂM, TÂM tức là PHẬT”.

 

Tích kể rằng, đến ngày mồng 1 tháng ba, Thượng hoàng Trần Minh Tông đích thân đến thăm bệnh Nhị Tổ Pháp Loa và gọi thái y đến trị bệnh cho Ngài. Đến tối mồng 3 tháng 3, Ngài trở bệnh nặng, Ngài Huyền Quang thưa “Xưa nay đễn chỗ ấy, buông đi là tốt hay nắm lại là tốt?”

Ngài Pháp Loa bảo “Thảy đều không can hệ”

Ngài Huyền Quang hỏi “Khi thảy đều không can hệ thì thế nào?”, Nhị tổ Pháp Loa bảo “Tùy xứ Tát Bà Ha”. Lúc đó đệ tử đồng đến thỉnh “Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ dạy đệ tử sao riêng Thầy không có?”. Nhị Tổ Pháp Loa quở trách họ.

Giây lâu Ngài ngồi dậy, bảo đem giấy lại viết. Nhị Tổ viết một bài kệ:

“Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn

 Tứ thập dư niên mỗng huyễn gian

Trân trọng chư nhơn hưu tá vấn

Na biên phong nguyệt cánh man khoan”

 

Dịch là “Muôn duyên cắt đứt, một thân nhàn

Hơn bốn mươi năm, giấc mộng vàng

Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi

Bên kia trăng gió rộng thênh thang”.

 

Viết xong, Nhị Tổ Pháp Loa ném bút, an nhiện thị tịch, thọ 47 tuổi. Đệ tử theo lời phó chúc của Ngài đem nhục thể lên nhập tháp tại Thanh Mai Sơn.

Thái Thượng Hoàng ngự bút ban hiệu cho Ngài là Tịnh Trí Tôn Giả. Tháp tên là Viên Thông. Thái Thượng Hoàng tặng 10 lượng vàng để xây tháp và đề một bài thơ.

Ngày 3 tháng 3 âm lịch, Nhị Tổ Pháp Loa viên tịch. Ngài để lại rất nhiều tác phẩm lớn trong đó có Đoạn sách lục, Tham thiền chỉ yếu (Thiền đạo yếu học), Kim cương đạo tràng Đà La Ni kinh, Tán Pháp Hoa kinh khoa sớ, Bát Nhã Tâm kinh khoa.

Hôm nay đúng ngày 3 tháng 3, ngày Tổ Pháp Loa viên tịch. Con ngồi nghĩ và ngẫm về ý chí học đạo của Ngài. Ngài tuy là dân giã ít học nhưng chí học đạo cao. Ngài tự tìm tòi để tự trau dồi mình. Ngài tự đọc bộ kinh Hải Nhãn (có thể là kinh Thủ Lăng Nghiêm) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn thí dụ khách trần ở sau. Ngài xem đi xem lại nhiều lần. Bỗng nhiên Ngài có chỗ vào. Ngài lại phát được tâm cầu vô thượng bồ đề. Rồi lại biết gần gũi nương tựa thiện tri thức. Ngài tìm đến, thân cận nhiều hơn với Điều ngự Giác hoàng. Thế rồi cũng có lúc Ngài chợt đại ngộ. Từ đây Ngài tiến bộ rất xa trên con đường hành đạo.

Đúng ngày giỗ Nhị Tổ Pháp loa, con ngồi ngẫm về thành tựu các công tác Phật sự của Ngài. Trong đời lãnh đạo phái Trúc Lâm, Ngài đã thành tựu những công tác Phật sự rất lớn như đúc tượng Phật, kể cả lớn nhỏ, có hơn 1.300 vị, tạo đại gia lam được 2 ngôi chùa, xây tháp được 5 ngọn, lập tăng đường hơn 200, độ tăng và ni hơn một muôn năm ngàn (1.500), in được 1 bộ Đại Tạng Kinh, đệ tử đắc pháp hơn 3.000, thành đại pháp sư có 6, độ người quy y Tam Bảo không biết bao nhiêu.

Đúng ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, con ngồi tĩnh tâm và thực sự khâm phục thành tích Phật sự của ngài. Thật là vẻ vang. Thật là hiếm có. Ngài thật sự là một vị Tổ sư thiền. Ngài đã làm tròn được bổn phận của một vị chân Tăng, trên đã đền được ơn Phật Tổ. Ngài đã làm sáng lạn dòng thiền Trúc Lâm.

Sớm mai ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, với tâm thành kính thiết tha, con xin nhớ về Ngài, một bậc thầy lớn về thiền. Từ vị thầy của mình là Hương vân Đại Đầu Đà, Ngài lại nối tiếp dòng thiền, truyền lại cho vị Tổ Sư thứ 3 là Tổ Huyền Quang. Như vậy, Ngài đã trọn bổn phận làm trò mà cũng trọn bổn phận trao truyền cho kẻ hậu lai tiếp nối, làm phát triển thêm dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử.   

Đúng ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, con tọa thiền và nhớ về Ngài, vị Tông Sư đã khai thị cho người tu thiền là phải thấy TÁNH. Ngài dạy “Là người học Phật, trước hết phải thấy tánh”. Thấy tánh, không phải có TÁNH bị thấy. Nói thấy là chỗ không hề thấy mà thấy vậy. Cho nên nói thấy, thấy không phải thấy thì CHÂN TÁNH hiện. Tánh thấy là vô sanh, sanh thấy thì chẳng thể có, chẳng có cái tánh thật mà thấy thật không dời đổi. Thế nên, như Ngài dạy, là CHÂN THẬT THẤY TÁNH.

Sớm nay, con ngồi và nhớ về Ngài, người tuy xuất thân từ dân giã nhưng gặp lúc có thể hưởng được danh lợi, quyền lực nhưng Ngài vẫn giữ được phẩm hạnh của 1 tỳ kheo. Khi Ngài ở địa vụ Tổ thì những hàng thái hậu, công chúa, vương công quý trọng Ngài, cúng dường rất nhiều lợi dưỡng. Cho đến cả nhà vua cũng tôn vinh ngài như là bậc Thầy. Họ đua nhau cúng đất, vàng, tiền,… nhưng Ngài phải tự xin giảm dần những đồ cúng dường đó. Ngài từ chối cả thuyền vua cúng dường để tiện việc đi lại cho Ngài. Ngài chỉ lo cho Tam Bảo mà không lo cho cá nhân Ngài. Ngài chỉ nhạt mùi danh lợi, say mùi đạo, mở cánh cửa từ bi, khép cánh cửa thế gian thường tình nên danh lợi dầu có mấy cũng không phủ chụp được tiết thảo của một bậc chân tu.

Sớm hôm, con ngồi tĩnh tưởng nhớ đến việc dạy thiền, dạy đạo của Ngài. Với tư cách là một Tổ Sư của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, Ngài đã phát huy đúng mức Đạo Thiền. Dòng thiền Tổ Sư là dòng thiền KIẾN TÁNH nên phải xứng tánh khởi tu, hay phải thấy TÁNH khởi tu. Vì thế TÁNH là một thuật ngữ rất chuyên môn trong nhà thiền. Ngài dạy cho người tu làm sao thấy đươc TÁNH.  

Sáng sớm ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, con ngồi với tâm rỗng lặng, tự hỏi Nhị Tổ Pháp Loa, Ngài đang ở đâu? Ngài ở phương Trên, phương Dưới, hay ở phương Đông, phương Tây phương Nam, phương Bắc. Con tha thiết, chí thành cầu thỉnh Ngài quang lâm đạo tràng cho chúng con được lân mẫn. Sáng hôm nay thầy trò chúng con tưởng nhớ đến Ngài tại Pháp Loa thiền tự trên núi Sóc Sơn, Thủ đô Hà Nội.

Ngồi tĩnh tâm với tâm thành kính, con xin được thành tâm thưa trình, vì nguyên nhân nào, Ngài lại xuất gia hành đạo? Làm cách nào chúng con học theo Ngài để có thể CHÂN THẬT THẤY TÁNH.

Sớm mai ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, sau thời thiền, con ngồi xem lại sách “Phật pháp căn bản” của Hòa thượng Thích Thanh Từ, con ngồi xem lại chương trình Hòa thượng Thích Thanh từ nhắc nhở Phật tử tại Thiền viện Sùng Phúc, rồi lễ giỗ cố hòa thượng Thích Thiện Hoa.

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, con ngồi nhớ về công hạnh của Tổ để hàng hậu học chúng con luôn nhớ công ơn Tổ sư, để tu tập tốt hơn, tinh tấn hơn.

Trong đầu con đang văng vẳng những lời dạy rằng làm được điều lợi ích gì, có bao nhiêu công đức, đều hồi hướng: Trên đền đáp bốn ơn; Dưới cứu giúp ba loài.

Sớm mai ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, con ngồi ngắm bộ sách XUÂN TRONG CỬA THIỀN do ban Văn hóa thiền viện Thường Chiếu phát hành ghi lại các bài giảng của Hòa thượng Tôn Sư Thích Thanh Từ mà thấy hạnh phúc và bình an kỳ lạ. Sớm nay không đủ thời gian đọc nên con chỉ cần ngồi ngắm trong bình an ngày mới đã thấy tuyệt vời lắm rồi. .

 

 

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, sớm nay, sau thời tọa thiền, con đã xin gieo năm vóc xuống đất đảnh lễ Tam Bảo, đảnh lễ Tam Tổ Trúc Lâm, đảnh lễ các Tổ từ trước đến nay. Con nguyện nương theo lực từ của Tam Bảo, của chư Tổ gia hộ để được hành thiền tinh tấn, đế thấy được Tánh. Con ngưỡng mong tất cả chúng sinh trước sau đều hạnh phúc trong ánh từ quang nơi Tam Bảo và nơi các Tổ. Con thành thật nguyện mong chúng con và tất cả chúng sinh được khơi nguồn trí tuệ, biết yêu thương tất cả.

 

Con nguyện hành thiền thật tốt, tu tập thật tốt. Những gì chúng con đã làm và những gì đang và sẽ đến, thiết nghĩ, chẳng cần phải nhọc công theo dõi kết quả. Việc của chúng con bây giờ là nỗ lực tinh tấn không ngừng. Chúng con xin học theo hạnh của Nhị Tổ Pháp Loa và các Tổ. Đã đi là đến, miễn là mình đi. Chuyện trí tuệ đến nhanh hay chậm chẳng cần để ý làm gì vì chúng con không thể thúc ép được trí tuệ. Mọi kết quả sẽ do nghiệp lực tự vận hành và tích lũy, do quyết tâm hành thiền và tu tập.

Khi trồng cây, chúng ta không thể thúc ép cây mọc nhanh vì cây có quá trình sinh trưởng của nó. Việc của chúng con là đào đất, trồng cây, tưới nước, bón phân, .. còn cây mọc thế nào là chuyện của cây. Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa chúng con xin vững tin vào những việc làm thiện đã và đang làm, và quyết tâm hành thiền mỗi ngày để cây tuệ mọc tốt và ra hoa kết trái.

Sáng nay chúng con cùng bên nhau tổ chức giỗ Nhị Tổ Pháp Loa tại Sóc Sơn. Hạnh phúc thay. Bình an thay. Một ngày ý nghĩa và trọng đại.

Tâm Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

Công ty sách Thái Hà

 



Bài 3:
Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa
cùng nhắc nhau thực hành những lời dạy
của Ngài và các bậc thiền sư lỗi lạc


Ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa mồng 3 tháng 3 thầy trò chúng tôi quy tụ tại Pháp Loa Thiền Tự, huyện Sóc Sơn, Thủ đô Hà Nội để tưởng nhớ đến Ngài. Có mặt trong ngày đặc biệt nay có khoảng vài chục quý thầy, quý sư cô đang thực hành thiền cùng các thiền sinh cư sỹ. Buỗi lê thật đơn giản và sâu sắc, ngắn gọn và ý nghĩa.

 

Chủ lễ húy kị Nhị Tổ Pháp Loa là Hòa thượng Thích Minh Hiền đến từ chùa Phật Đà, quận 3 TP HCM. Hòa thượng đã chứng minh và cùng hướng dẫn hàng hậu học chúng tôi nhớ về Tổ. Tiểu sử và đức hạnh cũng như công lao của Tổ Pháp Loa được tất cả thiền sinh chúng tôi lắng nghe chăm chú để hiểu hơn, ngấm hơn và quyết tâm hành thiền hơn.

Tôi rất ấn tượng với bài pháp thoại của Thượng tọa Thích Minh Thành đến từ Bà Rịa Vũng Tàu. Thượng tọa nhắc chúng tôi về những pháp môn căn bản trong thiền, khuyến tấn các thiền sinh có mặt tinh tấn và miên mật hành thiền. Nếu thiền sinh mà dễ dui, lười nhác thì khó mà đạt được kết quả cao. Chúng tôi lắng nghe và ghi nhớ từng lời. Quý hóa vô cùng.

Sáng ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, đại đức Thích Huệ Kiệt, tôi thấy “chủ nhà” của Pháp Loa Thiền Tự tại Sóc Sơn bình an và hạnh phúc vô cùng. Đại đức Huệ Kiệt cũng rất bất ngờ khi có số lượng lớn quý thầy, quý sư cô đến dự. Về hàng cư sỹ tại gia cũng đủ cả, từ quan chức trung ương đến hàng giáo sư, tiến sỹ, từ các giảng viên và thầy cô giáo đến giám đốc, doanh nhân, từ bác sỹ đến kỹ sư đến sinh viên đại học,… Đủ cả. Tất cả tề tựu đông đủ và thành kính. Tất cả quy tụ về đây để cùng quý Hòa thượng, Thượng tọa, đại đức, tăng, ni nhớ công ơn Tổ Pháp Loa và khuyến tấn nhau hành thiền. Tất cả cùng bình an, cùng hạnh phúc với Đại đức Thích Huệ Kiệt. Một ngày trọn vẹn diệu kỳ. Một ngày quý giá cùng nhau tu tập và hành thiền.

Tôi rất ấn tượng và nhớ về bài thơ của Tổ Pháp Loa đề là Luyến Thanh Sơn vào đầu năm Khai Hựu tức 1329, đời Trần Hiến Tông khi Ngài mở têm cảnh Côn Sơn và Thanh Mai Sơn rằng:

Thưa gầy làn nước vút,

Chót vót ánh soi trong

Ngẩng đầu coi chẳng hết”

Đường tới lại trùng trùng

 

Càng ngẫm càng thấy hay, thấy quý. Đúng thật là động niệm liền sai, mở miệng là lầm, làm sao mà xét, làm sao mà quán.

Tôi nhớ đến lời giảng của Tổ Pháp Loa rằng, ngày tháng dễ dàng qua, mạng người không chờ đợi, sao cam ăn cháo ăn cơm mà chẳng rõ việc bát, việc muỗng. Tham!’ Đúng là mình tham thật. Đúng là thất niệm nhiều quá thật. Phải cố gắng và nỗ lực tinh tấn thiền tập và chánh niệm thôi.

Tôi nhớ rằng có vị sư khi đó đã bước ra nói với Tổ Pháp Loa rằng, mặc áo, ăn cơm là việc tầm thường, đâu cần phải sanh nghi ngờ. Ông lễ bái xong, đứng dậy hỏi “Cõi thiền không dục là khỏi hỏi, cõi dục không thiền xin nói một câu”. Khi đó Tổ Pháp Loa lấy tay chỉ lên hư không.

Rồi vị tăng kia nói “Dùng đàm dãi cổ nhân làm gì?”. Tổ trả lời “Mỗi lần nhắc lại mỗi lần mới”.

Vị tăng lại thưa “Cổ nhân đều hỏi, thế nào là Phật, thế nào là Pháp, thế nào là Tăng? Chỉ đây thế nào? Việc ấy thế nào?”. Tổ Pháp Loa đáp “Thế nào? Việc ấy thế nào”.

Vị tăng thưa:

“Trên đàn không dây tri âm tít,

Cao vút tiếng đàn cha con hòa”…

 

Tôi ngồi nhớ lại và nghĩ về một bài pháp khác của Tổ. Kể rằng, một hôm Tổ Pháp Loa nghe đồ chúng tụng kinh bèn hỏi “Chúng làm gì?” Có vị tăng thưa “Chúng niệm Phật tâm”. Tổ bảo “Nếu nói là tâm, tâm tức không Phật. Nếu bảo là Phật, Phật tức không tâm. Thế gọi cái gì là tâm? Vị tăng ấy không đáp được. Thế đấy. Chúng con ngồi ngẫm và càng ngẫm càng thấm, cành thấy sâu sắc và vị diệu.

 

Lại câu chuyện khác, khi Tổ Pháp Loa hỏi vị tăng khác “Chúng làm gì?”. Vị tăng thưa “Niệm Phật.” Tổ bảo “Phật vốn không tâm thì niệm cái gì?”. Tăng thưa “Chẳng biết”. Tổ bảo “Ngươi đã chẳng biết, vậy nói đó là ai?. Vị tăng không đáp được.

 

Tôi ngồi và ngẫm về bài thi văn của chính Thái Thượng Hoàng ngày 11 tháng 3 sau ngày Tổ Pháp Loa tịch 8 ngày như sau:

Đã hết duyên trần thõng tay đi

Giáo Hoàng kim xuyến được truyền y

Thanh Sơn cỏ mọc che phần mộ

Cây biếc trong sương để xác ve

Đêm phủ giảng đường trăng kim cổ

Ngày ngày trượng thất khói mờ che

Thân mến biết bao, ôi luyến tiếc!

Nhớ công giáo hóa lệ đầy my.”

Thái Thượng Hoàng đã vậy huống chi là chúng ta. Làm sao đây. Làm sao bây giờ. Năm 1330 và 2017. Có lẽ chỉ còn cách là thõng tay tôi. Có lẽ cần học buông thôi. Có lẽ cần tu tập miên mật và công phu tinh tấn để đền ơn công lao giáo hóa và những lời chỉ dạy quý báu của Nhị Tổ Pháp Loa.

Tôi ngồi và tĩnh tâm nhớ về những lời khuyên xuất gia tiến đạo của Nhị Tổ Pháp Loa. Đúng là cần phải học 3 thứ pháp là rõ tông sư, biện pháp chân ngụy, biết thiện ác. Đúng là phải học pháp cầu thầy.

Mà chúng ta, may mắn thay, đã có thầy rồi. Là thiền sinh, chúng ta có những vị thầy lớn như thiền sư Khương Tăng Hội, thiền sư Trần Nhân Tông, thiền sư Pháp Loa, thiền sư Huyền Quang,... Rồi chúng ta đã có Hòa thượng thiền sư Thích Thanh Từ, Thích Nhất Hạnh,…

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, tôi ngồi nghĩ lại những lời khuyên chúng thượng thừa tam học của Ngài. Quý hóa vô cùng. Đúng như Ngài dạy, tuệ đã đầy đủ, ban cho chúng sinh, nguyện lực không cùng tận, tự giác giác tha, tứ sanh và cửu loại tất cả đều được thấm nhuần. Nếu tuệ mà không định gọi là càn tuệ (tuệ khổ), định mà không tuệ gọi là si thiền. Ngài cũng đã chia thiền làm năm. Đó là phàm phu thiền, ngoại đạo thiền, tiểu thừa thiền, đại thừa thiền và thượng thừa thiền. Chúng ta đã có pháp bảo trong tay, đã có cẩm nang thiền vàng ngọc trong mình. Chỉ còn hành nữa thôi. Pháp học, pháp hành và pháp thành gắn nhau như môi  với răng, như da với thịt mà.

Cuộc đời tu học của Tổ Pháp Loa thật là đáng khâm phục. Công đức phát triển giáo hội Phật giáo của Ngài lớn thật không thể nghĩ bàn. Những công trình và tác phẩm của Tổ để lại thật là vĩ đại. Gần bảy trăm năm trước mà Ngài đã làm được như vậy, đã để lại cho hậu thế chúng ta nhiều đến vậy, chúng ta không nhắc nhau thực hành ư, không tự mình hành thiền chuyên tâm ngày đêm ư? Xấu hổ! Xấu hổ!

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa ngẫm về tư tưởng thiền học của Ngài mới thấy đáng giá ngàn vàng. Tổ nhấn mạnh nhiều lần nhu yếu tìm học kinh điển và đặt vấn đề kiến tánh lên hàng đầu. Theo đúng tinh thần Tuệ Trung, Ngài đặt vấn đề kiến tánh trên căn bản KHÔNG CHỦ THỂ KHÔNG ĐỐI TƯỢNG.

 

Tổ Pháp Loa chỉ bày phương pháp thực tiễn nhiếp tâm giữ ý (gọi là tịnh giới) như sau: “Thế nào là tịnh giới? Là trong 24 tiếng đồng hồ một ngày, các điều kiện ngoại cảnh không dấy động, các điều kiện nội tâm không lung lay. Tâm không lung lay thì cảnh đạt tới trạng thái như nhàn. Nhãn căn (mắt) không phải vì đối tượng mà hướng ra ngoài, nhãn thức (cái thấy) không phải vì đối tượng sở duyên mà hướng vào bên trong. Ý thức được rằng ra và vào không giao tiếp liên hệ cho nên đạt được trạng thái điều chế ngưng nghỉ. Tuy gọi là điều chế ngưng nghỉ mà không phải là bất động. Đối với các thứ khác như nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý cũng vậy. Đó gọi là Đại Thừa Giới, là Vô Thượng Giới, và Vô Đẳng Giới. Tịnh giới này, từ một vị tiểu tăng cho đến một vị đại tăng, ai cũng có thể duy trì và an trú trong đó được. Nhờ duy trì tịnh giới mà kiên cố không giao động. Sau đó mới tập thiền định, buông xả cả thân và tâm cùng một lúc.”

 

Có một điều mà không mấy ai biết hay tìm hiểu kỹ, rằng Nhị Tổ Pháp Loa có nhiều bài thơ và kệ tụng. Tuy nhiên tất cả các bài kệ tụng của Ngài viết trong “Thạch thất mị ngữ niêm tụng” đã mất theo tác phẩm. Hiện nay, tiếc thay, chỉ còn lại 3 bài thơ. Một bài ca tụng Tuệ Trung Thượng Sỹ có trong “Tuệ Trung Thượng Sỹ Ngữ Lục”, một bài Thị Tịch trong “Tam Tổ Thực Lục” và bài “Lưu luyến cảnh núi xanh” trong “Toàn Việt thi lục.”

Bài ca tụng Tuệ Trung của Tổ Pháp Loa rất ngắn nhưng rất hay. Tôi ngồi và đọc đi đọc lại rất nhiều lần:

“Gang ròng nhồi lại

Sắt ống đúc thành

Thước trời đất

Gió mát trăng thanh.”

Hay tuyệt. Công án thiền quý giá. Càng ngẫm càng thấy giá trị. Chỉ có một việc duy nhất lúc này là thực hành những ý hay, lời quý của Tổ và các bậc thiền sư lỗi lạc mà thôi.

    

Nhân ngày giỗ Nhị Tổ Pháp Loa, thầy trò thiền sinh chúng tôi quây quần bên nhau. Cùng nhau nhớ về Tổ. Cùng nhắc nhau hành thiền. Cùng ôn lại những tháng ngày hành thiền cùng nhau hoặc mỗi người mỗi chốn. Miễn là hành thiền.

Vô sở cầu; Vô sở đắc; Vô sở sợ là những gì những thiền sinh cư sỹ chúng tôi ngồi bàn luận và nhắc nhau nhiều nhất. Chỉ cần nắm vững và thực hành miên mật 3 viên ngọc quý này là tuyệt diệu rồi. Chỉ quyết tâm hành thiền mà không cầu mong gì, không cần đắc gì, không có sợ gì hết đã là quá đủ. Chúng tôi đang cùng nhau đi trên đường chánh, đi trên đường vui.

 

Nhân ngày giỗi Nhị Tổ Pháp Loa tại Pháp Loa Thiền Tự tại Sóc Sơn, chúng con có cơ hội nhắc nhau thực hành lời Ngài dạy. Chúng con cũng ôn những lời dạy của Tam Tổ Huyền Quang, của Hòa thượng Thích Thanh Từ và các bậc thầy thiền sư khác. Xin biết ơn Đại đức Thích Huệ Kiệt đã đứng ra tổ chức ngày húy kỵ NhịTổ quá ý nghĩa này.

Hạnh phúc thay. Bình an thay. Lại thêm một ngày ý nghĩa và thiết thực. Xin đê đầu đảnh lễ và thành kính biết ơn. Xin nguyện sống trọn vẹn ngày mới. Xin dùng mắt yêu thương và mắt trí tuệ nhìn cuộc đời.

 

Viết sau thời thiền tuyệt vời sớm mai

06h36 ngày 31/03/2017

 

Tâm Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

Công ty sách Thái Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2018(Xem: 8731)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6863)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10204)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7469)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8331)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5825)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6491)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8797)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 6955)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6401)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]