Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mạn Bàn Về Cõi Vô Hình Trong “Hành Trình Về Phương Đông”

18/03/201708:15(Xem: 11734)
Mạn Bàn Về Cõi Vô Hình Trong “Hành Trình Về Phương Đông”

Mạn Bàn Về Cõi Vô Hình Trong “Hành Trình Về Phương Đông”

Bài viết này xin gửi đến những vị hữu duyên bởi thế giới vô hình là một thế giới mà người trần  không thể nhìn thấy bằng con mắt xương thịt, và không phải ai cũng có cơ duyên tiếp xúc với người từ bên kia thế giới. Như vị pháp sư người Ai Cập trong Hành Trình Về Phương Đông nói: “Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi’. blank 
Không tin đã đành, nhiều người thiển cận “thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí.”
Thật ra, cõi âm không là đề tài huyền bí của phương Đông mà đã có rất nhiều nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới tin vào hiện tượng này. Đó là nhà vậy lý học Brian Josephson, người nhận giải thưởng Nobel prize, bác sĩ Fred Alan Wolf,  Margaret Mead, nhà nhân chủng học, và rất nhiều học giả khác. Thời đại thông tin ngày nay phổ biến khá nhiều tin tức về cõi giới vô hình trên toàn cầu với đa ngôn ngữ từ khía cạnh tâm linh lẫn khoa học nên nó không phải là điều bí ẩn nữa.
Từ nhỏ, tôi là người rất sợ ma và lớn lên cũng vậy.  Có lẽ là vì thiếu hiểu biết.  Khung cảnh tịch mịch ở đồng quê với những câu chuyện ma ly kỳ làm tôi sợ hãi. Biết tôi nhát, mấy người chị tôi cứ nhát ma thêm khiến tôi nhiều phen thất kinh hồn vía. Bản tính chết nhát đó cứ bám lấy tôi như một căn bệnh trầm kha cho đến khi có cuộc trải nghiệm tâm linh với người cõi âm. Thật tình, quá trình giáo dục trên đất nước văn minh làm tôi không tin vào những điều mê tín dị đoan như chuyện đồng bống nhưng là một Phật tử tôi tin vào những nguyên lý thâm sâu trong đạo Phật. Hiện tượng cõi âm không là một điều mê tín dị đoan.
Tôi thường tò mò lên Youtube coi những đoạn phim các Thầy kể chuyện về những vong linh chưa được siêu thoát nhập vào người thân với tình tiết hấp dẫn, thú vị.  Nghe thì nghe, đọc thì đọc, coi thì coi nhưng vẫn mơ hồ, cho đến khi chuyện tâm linh hy hữu  xảy ra với tôi.  Trước đây, tôi cũng có đọc “Hành Trình Về Phương Đông” một cách thích thú bởi vì chưa có một bài viết nào giải thích tường tận về thế giới bên kia như trong cuốn sách này: lập luận súc tích và kiến thức chuyên sâu.  Bên cạnh đó, cả hai người – vị pháp sư người Ai Cập  Hamud El Sarim với bằng Tiến sĩ Vật lý tại đại học Oxford  và Evans-Wentz đều là người danh tiếng với học vị cao gây trong tôi ít nhiều tin tưởng.  blank
Tuy nhiên, tất cả vẫn là một dấu chấm hỏi lớn. Phải nói rẵng cuộc trải nghiệm tâm linh đã giúp tôi hiểu những điều mà tưởng chừng rằng cả đời khó có cơ hội chiêm nghiệm.  Tôi tìm đọc lại Hành Trình Về Phương Đông để đối chiếu và rút ra nhiều kết luận.
Trước hết, tôi quen một người cách đây mười bốn năm. Anh là một bác sĩ, một Phật tử.  Sự ra đi đột ngột của anh đã trở thành một lỗ hổng trong tim khiến tôi day dứt bao năm. Tôi thường băn khoăn không biết anh đang ở cảnh giới nào.  Đinh ninh rằng anh đã siêu thoát, tôi lặng lờ trôi theo dòng đời với một nỗi vương vấn không nguôi. Một ngày anh trở về, lúc đầu nhập vào tôi, và sau đó vào người thân để trò chuyện với tôi. Gần ba tuần tiếp xúc mang đến cho tôi nhiều suy gẫm về chặng đường đời tôi đã đi qua và trước mặt. Tôi không còn sợ ma như trước.  Sự khám phá về cõi âm vén nhiều bức màn vô minh, và là một bước ngoặc tâm linh lớn trong đời tôi.
Có hai hiện tượng vong nhập. Hiện tượng thứ nhất là người bị vong linh nhập hoàn toàn không làm chủ được mình. Thần thức của họ bị “khống chế”, như ngủ một giấc dậy và không ý thức được điều gì đã xảy ra.  Người bị nhập có thể nói giọng khác. Giọng nói thay đổi tùy thuộc vào dòng từ trường mạnh hay yếu. Hiện tượng thứ hai là người bị vong nhập vẫn còn tỉnh, thần thức không hoàn toàn bị “khống chế”. Nói là tỉnh nhưng thật ra không hoàn toàn làm chủ được mình.  Mặc dù vẫn còn ý thức được tất cả những điều xung quanh nhưng các giác quan bị chi phối và biếng hoạt động.  Đây được ví như hành động “cướp chính quyền” và sự giằng co giữa hai thần thức khiến cho người bị vong nhập có những biểu hiện khác thường: người bần thần, vô hồn, tay chân không muốn cử động, mắt đờ đẫn nhìn chằm chằm vào khoảng không, biếng tiếp xúc với bất kỳ ai. Đầu lâng lâng.
blank
Thân thể bồng bềnh trong trạng thái nữa mê nữa tỉnh với nhiều ảo giác (hallucination). Thính giác và thị giác trở nên vô cùng nhạy cảm bởi âm thanh và ánh sáng. Hai hiện tượng vong nhập có thể kéo dài từ ba mươi phút đến cả giờ, và người bị vong nhập trở lại bình thường sau khi vong xuất.
Cõi âm có tôn ti trật tự và luật lệ hẳn hoi. Có nhiều cõi giới, nhiều khu khác nhau tùy theo những tội lỗi vong linh gây ra lúc còn sống. Những người chưa siêu thoát đều bị sự giám sát chặt chẽ bởi “cấp trên” hay “bề trên”. Không phải ai muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi. Mỗi lần về lại cõi trần phải xin phép. Thời gian bao lâu cũng được định sẵn. Đến giờ có tín hiệu báo và người cõi âm phải trở về.
Người cõi âm không bị lão hóa, vẫn minh mẫn như khi họ còn sống khác với người cõi trần bị ràng buộc bởi cơ thể vật chất.  Dòng tâm thức không bị ảnh hưởng bởi không gian và thời gian. Họ có thể biểu lộ nhiều cảm xúc phức tạp khác nhau như yêu thương, ghen, giận, vv . Đây cũng là điều được chứng minh bởi nhà khoa học Robert Lanza trong cuốn sách hiện nay mà đang gây nhiều sôi nổi trên cộng đồng mạng gọi là: “Biocentrism: How Life and Consciousness Are the Keys to Understanding the Nature of the Universe”Trong cuốn sách này, ông nêu ra rằng người chết đi nhưng tâm thức vẫn tồn tại mãi mãi, và không hạn chế bởi không gian và thời gian.
Luật nhân quả bao trùm sự vận hành của cõi âm.Vị pháp sư người Ai Cập luận giải rằng”thời gian vong linh lưu lại cõi trung giới hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát” Định luật thiên nhiên gồm những định luật gì? Theo tôi hiểu đó là luật nhân quả.  Rất nhiều người nghĩ rằng sau bốn mươi chín ngày, vong linh đi đầu thai. Thật ra không phải vong linh nào cũng đi đầu thai sau bốn mươi chín ngày, mà họ phải thọ quả những nghiệp họ tạo ra khi còn sống.  Sau đó nếu họ tỉnh thức, các thể vía rung động ở tầng số cao hơn, và cuối cùng họ được đi tái sinh. 
blank
Vong linh chưa siêu thoát không được phép về lại cõi trần, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, nên người thân cứ nghĩ rằng họ đã đi tái sanh, ví dụ trong trường hợp người quen của tôi, lúc còn sống là một bác sĩ hiền lương, nhưng tôi quá đỗi ngạc nhiên vì anh vẫn chưa siêu thoát sau mười mấy năm. Anh chưa được siêu thoát vì phải thọ lãnh quả từ  điều anh làm khi còn sống. 
Bên cạnh đó, anh còn lưu luyến cõi trần nên chưa được đi đầu thai, mặc dù phải nghe kinh kệ mỗi ngày. Trong suốt mười mấy năm anh vẫn theo dõi cuộc sống của tôi ở cõi trần. 
blank
và kể lại rành rọt những gì tôi đã làm, những mâu thuẩn xảy ra với ai không sót một chi tiết và chính xác đến hoàn hảo khiến tôi lặng người. Anh đã trở về nhiều lần trước đó và báo mộng người thân khi tôi đứng trước những biến cố, nhưng những lần trước không được phép nhập vào người khác.   Lần sau cùng, anh nhập vào người thân để nói chuyện với tôi, và anh xác định những lần trước anh có về báo mộng.  Sự quyến luyến giữa hai cõi âm dương và sự tỉnh thức của người cõi âm đóng vai trò quyết định vong linh lưu lại thời gian bao lâu ở cõi trung giới.  Cộng nghiệp cũng là yếu tố góp phần vào việc trì nãi đi tái sanh.
Tư tưởng có một sức mạnh phi thường và người cõi âm có thể đọc được tư tưởng người ở cõi trần.  Vị pháp sư nêu rằng “xác tuy hư hoại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm nhận được tình thương của tạ.  Họ còn biết các đau buồn, cảm giác của ta, vì họ đọc được tư tưởng.”  Chúng ta đừng nghĩ rằng chết là hết.  Người thân của chúng ta đã ra đi nhưng họ cảm nhận được tất cả tình thương chúng ta dành cho họ nếu họ chưa siêu thoát. Tuy nhiên, điều tốt nhất là người cõi trần nên không quá quyến luyến để vong linh không bị núm níu, xúc động mà tâm thức được nhẹ nhàng để sớm đi đầu thai. Đư’c Phật cũng chỉ rõ về sự luyến ái, là nguồn gốc của luân hồi sinh tử. Hiểu được điều này, cho dù có thương nhớ chúng ta nên tự nguôi ngoai.
Người cõi âm có những cảm ứng đặc biệt, ví dụ tạo những âm thanh như tiếng gõ, tiếng khóc, vv.  Tôi đã chứng kiến những cảm ứng đó, hỏi anh và được anh trả lời là những cảm ứng đó được tạo bởi dòng từ  trườ`ng (magnet).  Anh là một bác sĩ khi còn sống, một người hiểu về khoa học nên tôi hỏi nhiều điều và được anh tường tận chia sẻ.    Những cảm ứng đặc biệt này không được xử dụng một cách bừa bãi mà phải được cho phép mới xử dụng tùy theo hoàn cảnh.  Sức mạnh thần giao cách cảm khiến họ có khả năng báo mộng cho người thân.
blank
Vị pháp sư  Ai Cập vốn là một nhà khoa học và tìm hiểu về cõi âm như một công trình nghiên cứu nên các dữ liệu trình bày về cõi vô hình một cách khách quan và vô tư. Tôi cảm nhận rằng phần trình bày về cõi vô hình của ông chưa biểu đạt hết sự thâm sâu của luật nhân quả. Nhóm từ “ định luật thiên nhiên” được lập lại nhiều lần. Phải chăng ông dùng nhóm từ này để dễ dàng công nhận bởi nhiều tôn giáo khác?!  Dù sao, Hành Trình Về Phương Đông là một nghiên cứu công phu, chuyên sâu và đầy đủ chi tiết. Tiếc thay, có quá nhiều công trình nghiên cứu về cõi trần mà không bao nhiêu nghiên cứu chuyên sâu về thế giới bên kia cửa tử như của vị pháp sư này.
Điều tôi rút tỉa từ trải nghiệm tiếp xúc với người cõi âm là: 1) Sự tiến hóa tâm linh quyết định vong linh ở cảnh giới nào ở cõi âm cũng như ảnh hưởng quá trình đi tái sanh.  Điều này cũng đã đề cập rõ trong các kinh điển Phật giáo;  2) Luật nhân quả được áp dụng một cách tuyệt đối cho tất cả mọi vong linh ngoại trừ những bậc giác ngộ;  3) Đạo lý được nêu cao trong quá trình giúp vong linh siêu thoát ở cõi âm;  4)  Luyến ái là nguồn gốc của luân hồi sinh tử.
Ma không còn là một khái niệm đầy huyền bí, mơ hồ, một nỗi khiếp sợ hãi hùng đối với tôi nữa. Ma không chỉ đơn thuần là những hiện tượng tâm lý như trong bài viết nghiên cứu của tác giả Hoàng Phong: “ Ma ngự trị ở đâu: trong đầu của chúng ta . Nó nằm sẳn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta”.  Ma là những vong linh chưa được siêu thoát còn vất vưởng ở cõi trung giới. Bây giờ, tôi có sự thông cảm với những vong linh vì lý do gì đó mà chưa được siêu thoát.  Cõi vô hình không là một đề tài mới, nhưng là một kinh nghiệm mở mắt tuyệt vời đối với tôi. Nó cũng cố niềm tin vào Phật pháp trong tôi một cách tuyệt đối.
Tôi cảm thấy mình là người thật may mắn được chọn là đối tượng để có cuộc trải nghiệm tâm linh với người thân. Dù bạn có tin hay không, thế giới vô hình đang tồn tại song song với thế giới cõi trần của chúng ta. Cõi giới vô hình không là điều mê tín dị đoan mà là một sự thật vượt ra khỏi biên giới khoa học, ngôn ngữ hay quốc gia.  Cõi âm là trạm chuyển tiếp mà hành trang duy nhất có thể chi phối cuộc lữ hành giữa hai cõi là sự tỉnh thức.  Kiến thức về cõi âm giúp chúng ta chuẩn bị hành trang cho giai đoạn chuyển tiếp và để giảm bớt mê lầm trong cuộc sống hiện tại mà sống nhẹ nhàng hơn, tỉnh thức hơn.
03.16.2017
Lê Diễm Chi Huệ

 
Trích dẫn:
-Blair T. Spalding. Dịch giả Nguyên Phong. Hành Trình Về Phương Đông. Nhà xuất bản Phương Đông TP. Hồ Chí Minh & Nhà xuất bản Thế Giới TP. Hồ Chí Minh. 2011
-Hoàng Phong. Có Ma Hay Không: Ý Nghĩa và Quan Niệm về Ma Trong Phật Giáo. [Xem bản điện tử trong trang nhà https://thuvienhoasen.org]
-Jake Anderson. Eight Eminent Scientists Who Believed In the Paranormal. [Xem bản điện tử trong trang nhà http://www.oddee.com/item_99038.aspx]
-Robert Lanza. Biocentrism: How Life and Consciousness Are the Keys to Understanding the Nature of the UniverseLake Book Manufacturing. 2009
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2014(Xem: 9831)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8744)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 9130)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
21/10/2014(Xem: 6843)
Đối với người đời, không có phước đức nào lớn cho bằng vợ đẹp, con khôn, của cải đầy kho, quyền thế, danh vọng, ăn ngon mặc đẹp… Thế nhưng bạn ơi, -Biết bao nhiêu ông thủ tướng, tổng bộ trưởng bị tù đày vì tham nhũng, gian trá, lạm quyền…thậm chí buôn lậu, dâm ô. Biết bao nhiêu ông tổng thống bị ám sát, lật đổ cũng chỉ vì tranh giành quyền lực. -Ông bố đốt tờ giấy bạc mà người nghèo có thể mua bao gạo để tìm một món đồ cho cô đào cải lương đánh rơi trong phòng trà…vài chục năm sau ông con lại sống như kẻ ăn mày. -Ông bố cặm cụi làm việc suốt đời tao dựng gia tài khổng lồ. Ông con trở thành “công tử” ăn chơi phung phí, bao gái, đua đòi, ném tiền qua của sổ…chẳng mấy chốc phá nát sự nghiệp của cha ông.
20/10/2014(Xem: 21746)
Đây là một trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập niên bảy mươi đến nay.
20/10/2014(Xem: 7667)
Là tín đồ Phật giáo từ năm mười bảy tuổi, đạo hữu luật sư Christmas Humphreys (1901-1983) không thuộc bất cứ một giáo phái nào của Phật giáo. Ông tin vào Phật giáo thế giới, và ông nghĩ rằng: “chỉ trong sự phối hợp của tất cả các tông phái người ta mới có thể thấy trọn vẹn sự vĩ đại của tư tưởng Phật giáo” (only in a combination of all schools can the full grandeur of Buddhist thought be found). Để làm cho quan điểm của mình được Phật tử trên thế giới chấp nhận, ông đã trình bày Mười hai nguyên tắc của Phật giáo (Twelve Principles of Buddhism) nổi tiếng của mình vào năm 1945, được dịch ra 14 thứ tiếng và được nhiều tông phái Phật giáo trên thế giới chấp nhận. Mười hai nguyên tắc ấy có điều giống với Mười Bốn Nguyên Tắc của Đại Tá Olcott giới thiệu trong tác phẩm Phật pháp vấn đáp (Buddhist Catechism) của ông, được xuất bản vào cuối thế kỷ thứ 19.
17/10/2014(Xem: 7314)
Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website. Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.
16/10/2014(Xem: 14285)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đại mà con người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh. Tuy nhiên theo lời Phật dạy, Phật từ tâm, tâm sinh Phật, để đưa đến giải thoát giác ngộ. Do đó nếu đã là Phật tử rồi thì nhất định phải tin lời Phật dạy, hơn nữa Kinh Hoa Nghiêm còn nói: “niềm tin là mẹ của công đức”.
14/10/2014(Xem: 9192)
Bạn chưa từng ghé thăm mà không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống, và líu lo: - Hên ghê, mình vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới. Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
14/10/2014(Xem: 8462)
Con đường ấy, khởi bước, ngỡ không mấy khó và chắc cũng chẳng có chi dài, vì nương theo sự chỉ bảo của các vị Đạo Sư, các bậc thiện tri thức giảng giải lời Phật dạy, thì sự giải thoát, giác ngộ có bao xa! Tùy căn cơ người nghe, lời giảng dạy chỉ gom về một mối, là muôn kinh, vạn kệ, hằng hà pháp môn cũng chỉ để giúp ta nhận ra, rằng mỗi chúng sanh đều có Phật Tánh sáng chói như nhau, nhưng nếu không thấy, chỉ bởi vô minh che lấp mà thôi. Nhận ra, và xóa sạch được bụi vô minh thì chúng sanh “sẽ thành Phật” đó, lập tức là “Phật đã thành”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]