Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường Trung đạo

07/03/201722:38(Xem: 8201)
Con đường Trung đạo
Con đường Trung đạo
                  con-duong-trung-dao        
GS Nguyễn Vĩnh Thượng

 

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong các bậc cao minh lượng thứ và sẽ phủ chính cho những sai lầm. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả để bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
NVT

Trong bài này, tôi sẽ trình bày:
I.-Đức Phật – Con đường Trung đạo.
II.-Long Thọ (Nagarjuna) - Con đường Trung đạo.
III.-Đức Dalai Lama thứ 14 - Giải pháp Trung dung cho Tây Tạng.
IV.-Khổng tử - Con đường Trung dung.
V.- Áp dụng thuyết Con đường Trung đạo trong cuộc sống hằng ngày.

 

 

I.-Đức Phật – Con đường Trung đạo:


Trong bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật, Ngài nói:
“Này các thầy Tỳ Kheo! Phép tu hành theo con đường ở giữa mà Như Lai đã ngộ là sự tu hành để phát triển nhãn quan, tri kiến, đưa đến sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn là gì? – Đó là Bát Chánh Đạo"
(Kinh Chuyển Pháp Luân, bản dịch và chú của NVT)

     Đức Phật gọi Bát Chánh Đạo là con đường Trung đạo/ con đường ở giữa (Pa. Majjhimāpaṭipadā; Sa. Madhyamāpratipad, HV. 中道  Trung đạo, Av. Middle Way/ Middle Path) bởi vì Bát Chánh Đạo tránh tất cả các cực đoan trong các cách ứng xử ở đời, và trong các quan điểm.
      Câu chuyện của cuộc đời Đức Phật lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng sau khi Ngài đã giác ngộ Ngài đem lý thuyết Con đường Trung đạo mà Ngài đã chứng ngộ để giảng cho 5 vị đệ tử đầu tiên. “Con đường Trung đạo” là một phương pháp được đưa ra để thực hành chứ không phải là một niềm tin siêu hình.
(Xem thêm bài “Cuộc đời của Đức Phật Thích-ca” của NVT)

      Chúng tôi xin tóm tắt như sau: Đức Phật nguyên là một Thái tử, sống một đời vương giả quyền quý trong Kinh thành. Vua cha của Ngài muốn bảo vệ và ngăn cản Ngài khỏi những nhận biết về sự khổ sở ở đời bằng cách cung phụng những thú vui dục lạc được khép kín ở trong cung đình. Tuy nhiên, là một thanh niên lớn lên, Ngài đã tò mò muốn biết những gì xảy ra ở ngoài cung vua, nên Ngài đã dùng xe ngựa để trốn ra khỏi thành vua bằng cách qua mắt các kẻ trông nom mình. Khi ra được thế giới bên ngoài của hoàng cung, Ngài đã tham quan 4 nơi, và mỗi nơi Ngài chứng kiến được một cảnh tượng: người già, người bịnh, người chết và vị tu sĩ khất thực. 3 cảnh đầu tiên đã giúp Ngài nhận thức về sự khổ đau của cuộc đời, cảnh thứ 4 giúp Ngài nhận thức được sự thanh thản của cuộc đời. Với ảnh hưởng của 4 lần tham quan này, Đức Phật đã quyết định đi tìm giải pháp để diệt trừ sự khổ đau của cuộc đời mà Ngài đã chứng kiến. Ngài đã rời khỏi Kinh thành và quyết định trở thành tu sĩ khất thực, Ngài đã đi lang thang vào rừng sâu. Nơi rừng sâu, Đức Phật đã theo học với hai vị thầy tu khác nhau về thiền học, nhưng Ngài vẫn chưa tìm được chân lý như mình ước muốn mặc dầu Ngài đã học tất cả những gì hai bậc thầy này truyền dạy. Rồi Đức Phật đi theo 5 vị thầy tu khổ hạnh, cách tu khổ hạnh là nhịn ăn và tự hành xác của mình với niềm tin rằng mình sẽ đạt được một ân thưởng trong đời sống tương lai. Nhưng sau đó, Đức Phật nhận thấy rằng lối tu khắc khổ có nhiều giới hạn, Ngài quyết định bỏ cách tu khắc khổ, bỏ việc nhịn ăn, nhịn uống. Ngài nhận thức rằng cả hai lối sống hưởng thụ dục lạc và sống khắc khổ không hoàn hảo; và Ngài khẳng định rằng Ngài cần phải tìm một con đường khác. Ngài chợt khám phá ra được “con đường trung đạo”.

 Con đường Trung đạo (Pa.Majjhima patipada, Sa. Madhyamāpratipad, Anh. Middle Way, Việt Hán. Trung đạo 中道) là con đường loại bỏ hai cực đoan để đạt được sự giải thoát khỏi dukkha, Đức Phật nói:
    1.-Một cực đoan là chìm đắm trong dục lạc (sensual pleasures), một dự tính loại bỏ những điều “không hài lòng” bằng cách thỏa mãn những dục vọng. Cách này đem đến những sự thỏa thích, những sự thụ hưởng đạt được chỉ có tính cách tạm thời và không đi vào chiều sâu của sự hài lòng. Đức Phật nhận thức rằng dục lạc là những trải nghiệm đã bám chặt vào tâm tư của chúng sanh, và Ngài đã nhận thức một cách sâu sắc rằng đó là những sự bám víu nóng bỏng, đã trở thành những thỏa thích dục lạc  của chúng sanh bình thường. Đức Phật đã thấu hiểu rằng những dục lạc ấy thấp kém hơn những hạnh phúc đến từ sự từ bỏ các dục lạc ấy. Do đó, Ngài đã dạy nhiều lần rằng con đường đi tới mục đích tối thượng Nirvana đòi hỏi phải từ bỏ dục lạc. Đức Phật nói rằng những khoái lạc trong dục lạc thì thấp hèn, phàm tục và vô ích, nó không dẩn đến mục đích tối thượng.

   2.-Một cực đoan khác là sự thực hành lối tu hành xác, nhằm cố gắng đạt được sự giải thoát bằng việc làm đau đớn thân xác của mình. Con đường này đi đến kết quả là thân xác ốm yếu cằn cỗi. Cái sai lầm là lấy thân xác làm nô lệ cho một tâm thức mà cội rể của tâm thức này là dựa vào lòng tham, sân, si. Việc thực hành ý muốn hành xác không những chẳng đem đến lợi ích gì mà còn cần phải loại trừ. Vì vậy, Đức Phật nói rằng cái cực đoan thứ hai này làm đau đớn thân xác và vô ích, nó không đưa đến mục đích tối thượng Nirvana: “Một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện” (tục ngữ).

Đứng xa cách khỏi hai cực đoan trên là “Bát Chánh Đạo”, còn gọi là “Con đường Trung đạo”.
   Con đường Trung đạo không có nghĩa là một sự kết hợp giữa hai cực đoan này mà có nghĩa là phải vượt qua, vượt lên trên hai cực đoan này bằng cách tránh những sai lầm mà mỗi cực đoan đều có.

II.-Long Thọ (Nagarjuna) - Con đường Trung đạo:

Nagarjuna (HV. Long thọ, 龍樹, khoảng thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch, tức khoảng 700 năm sau ngày Đức Phật Thích ca nhập diệt, ông thuộc dòng dõi Bà-la-môn) đã lấy quan niệm “con đường đứng giữa”/ Con đường Trung đạo của Đức Phật lịch sử và phát triển thêm để đưa ra học thuyết Trung đạo (Madhyamaka) được luận giải trong quyển Mula-madhyamaka Karika (中論, Trung luận, Anh. Fundamental verses on the middle way) được viết vào khoảng năm 150 Tây Lịch).

Madhyamaka là tiếng Sanskrit có nghĩa là con đường ở giữa/con đường trung đạo  (the middle way). Trung luận đặt trên một lý luận rằng không có gì tuyệt đối, mọi sự vật đều tương đối, không có sự vật nào tự tồn tại, mọi sự vật đều tùy thuộc lẫn nhau (everything is interdependent). Ngài Long Thọ còn phát triển thuyết Trung đạo sâu xa hơn nữa bằng cách căn cứ vào thuyết Duyên Khởi để lập nên một biện chứng “Bát Bất”/Tám cái Phủ định/ của con đường Trung đạo (the Eight Negation of the Middle Way) gồm những phủ định của các cặp cực đoan với nhau:

                       “Bất sanh, bất diệt,
                            Bất đoạn, bất thường,
                            Bất nhất, bất dị,
                            Bất khứ, bất lai.”

                 (trong Trung Quán Luận, đoạn tóm tắt từ Tạp A-hàm Kinh)

                            “It neither exists nor not exists,
                              It is not permanent nor discontinuous,
                              It is not one nor different,
                              It is not coming nor going.”
           (in the Madhyamika Sustra, an abstract from Samyukta Agama , Av. Connect Discourses)

Từ lý luận này, Trung luận đi đến khái niệm về tánh không (shunyata). Shunyata nghĩa là trống không (Shunyata means emptiness). Điều này không có nghĩa là không có cái gì hiện có. Nó có nghĩa là không có cái gì tự nó hiện hữu, cái đó là một phần của “mạng lưới phổ biếncủa hiện hữu (a part of a universal web of being). Quan niệm này là trọng tâm tư tưởng của các trường phái trong Phong trào Phật giáo Phát triển/ Phật giáo Đại thừa.Thực ra quan niệm “tánh không” là một hình thức diễn tả lại quan niệm về vô ngã (anatman, Av.not soul, not self-possessed), về vô thường (anitya, Anh. Impermanent), khổ (dukkha, Anh. dissatisfactoriness, pain, sorrow). 
(Xem thêm: Phật giáo Nguyên thủy, Thượng Tọa Bộ và Phật giáo Phát triển của NVT)


III.-Đức Dalai Lama thứ 14 - Giải pháp Trung dung cho Tây Tạng:

“Ngài Tenzin Gyatsa (1935 -   ) là vị Dalai Lama thứ 14 của Phật giáoTây Tạng (Tibetan Buddhism):

Tương truyền, Phật giáo đã được du nhập vô Tây Tạng vào thế kỷ thứ 3 sau CN.  Nhưng theo sử liệu thì Phật giáo đã chính thức thâm nhập vô Tây Tạng vào thế kỷ thứ 7 CN, dưới thời Vua Songtsen Gampo, trị vị từ năm 605-650 CN. Vua này có 2 bà vợ: một là công chúa Bhrikuti Devi xứ Népal, hai là công chúa Văn Thành, cháu gái vua Đường thái Tông (635-638) xứ Trung Hoa. Cả hai bà đều rất mộ đạo Phật, nên họ đã khẩn cầu nhà Vua cho Phật giáo thâm nhập vào xứ Tây Tạng. Trong lịch sử phát triển đạo Phật ở Trung Hoa và ở Việt Nam, phụ nữ là những người hộ pháp nhiệt thành và đắc lực nhất, nhờ lòng mộ đạo nhiệt thành của họ nên rất nhiều chùa chiền Phật giáo đã được xây cất không những có kiến trúc hoành tráng mà số lượng còn hơn các Văn Thánh miếu của Khổng giáo nữa.

 

Vào hậu bán thế kỷ 14 sang đầu thế kỷ 15, Đại sư Tsongkhapa (1359 – 1419), vị lãnh đạo tôn giáo tối cao, đã canh tân Phật giáo Tây Tạng, còn gọi là Lạt-Ma giáo, đây là quốc giáo của Tây Tạng. Lạt-Ma giáo được truyền vào phía Bắc Trung Hoa, Mông Cổ từ đời Minh (1368-1644). Kể từ năm 1575, Đại sư Tsongkhapa đặt ra hai vị lãnh đạo tối cao cho Lạt-Ma giáo là:
              1. Dalai Lama (Đạt-lai Lạt-ma) có  nghĩa
là  vị  Lama có  tâm  hồn bao la như  biển cả,( Dalai= biển cả , ocean), ( Lama = tối thượng sư, vị  sư sống đời độc thân (celebrate priest). Vị này ngự tại Giáo đền ở Lhasa để hành xử thế quyền, được coi như là hoá thân của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát (re-incarnation of Avolokitesvara). Sau khi Dalai Lama chết thì Panchen Lama (Ban-thiền Lạt – Ma) tìm người thay thế trong số các trẻ em vừa mới sanh sau cái chết của Dalai Lama vì họ tin rằng đó là hoá thân của vị Dalai lama này, và ngược lại . Vị Dalai Lama thứ nhất là Gedun Drupa (1391 – 1474).  
             2. Panchen Lama (Ban-thiền Lạt –ma) có nghĩa là đại học giả ( great scholar), vị này chủ quản đời sống tâm linh, nắm giữ thần quyền, được coi như là hoá thân của Đức Phật A-di-đà (Amitabha Buddha).

 

Năm 1910, nhà Thanh đem quân xâm chiếm Tây Tạng. Tuy nhiên năm sau thì nhà Thanh sụp đổ, nhân đó vị Dalai Lama thứ 13 Thupten Gyatso (1876 – 1933 ) , đã trị vì từ 1895, tuyên bố độc lập cho đất nước Tây Tạng, đuổi quân đội ngoại xâm nhà Thanh ra khỏi xứ. Tây Tạng hưởng được độc lập thực sự từ 1912 đến 1950.

               (Nguồn : internet)

 

Vị Dalai Lama thứ 14 Tenzin Gyatso (1935-   ) lên thay thế. Năm 1949, Mao trạch Đông chiến thắng ở Trung quốc, Mao cho quân tái chiếm Tây Tạng. Năm 1950, chánh phủ Tây Tạng tôn vinh Đức Dalai Lama thứ 14 làm nhà lãnh đạo xứ Tây Tạng, lúc ấy Ngài được 15 tuổi. Suốt thập niên 1950, Mao đã dần dần áp đặt chủ nghĩa xã hội trên đất Tây Tạng. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1959, Dalai Lama thứ 14, lúc ấy Ngài được 23 tuổi, đã giả dạng thường dân và đã cùng với một số ít người tùy tùng trốn qua Ấn độ. Từ đó Ngài sống cuộc đời lưu vong và chưa bao giờ có cơ hội trở lại quê hương của mình. Tại hải ngoại, Ngài đi bôn ba khắp nơi để vận động giành độc lập cho Tây Tạng. Đức Dalai Lama đã đem đến cho phong trào tranh đấu Phật giáo thế giới một đức lý xã hội của Phật giáo dấn thân ( Social Ethics of Engaged Buddhism).

 

Năm 1988, Đức Dalai Lama tuyên đọc “Giải Pháp Trung Dung” (Middle Way Approach) để giải quyết cuộc tranh chấp giữa Trung quốc và Tây Tạng tại Quốc Hội Liên Bang Âu Châu (European Parliament) ở  Strasbourg, Pháp quốc. “Giải Pháp Trung Dung” được Ngài lấy từ “”Bài thuyết pháp đầu tiên” của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni cho 5 người đệ tử đầu tiên của Ngài.Con đường trung đạo là con đường ở giữa hai cực đoan: một là lối tu khổ hạnh ( asceticism), hai là cuộc sống tự thoả mãn trong dục lạc ( self indulgence ). Quý vị có thể đọc diển văn chính trị nầy một cách chi tiết hơn ở  www.dalailama.com/messages/middleway-approach,accessed Jan.30,2013.Theo “giải pháp trung dung” của Ngài, thay vì Tây Tạng đòi độc lập hoàn toàn từ Trung Quốc thì giờ đây : Tây Tạng muốn được tự do về các việc nội trị như tôn giáo, văn hoá , giáo dục,  kinh tế, y tế và môi trường qua một chính phủ được dân bầu một cách dân chủ; còn Trung Quốc thì lo việc ngoại trị: ngoại giao và quốc phòng. Theo Ngài Dalai Lama, với giải pháp trung dung, thì cả Trung Quốc và Tây Tạng đều được hưởng lợi ích chung.

 

Nhưng tiếc thay, các nhà lãnh đạo  Trung Quốc không để ý tới “ Giải pháp trung dung” của Ngài Dalai Lama. Càng ngày Trung Quốc càng vi phạm nhân quyền, và đã đàn áp nhiều cuộc phản kháng bất bạo động ở Tây Tạng. Ở hải ngoại,  Dalai Lama tiếp tục đi bôn ba vận động sự ủng hộ cho Tây Tạng ở khắp nơi. Cộng đồng các quốc gia tự do dân chủ ở Âu Châu, Bắc Mỹ, Úc Châu đều ủng hộ lời kêu gọi của Ngài.

 

Năm 1989, Ngài được trao giải thưởng Nobel về hoà bình (Nobel Peace Prize). Năm 2007, Ngài được trao huy chương vàng của Ngành Lập Pháp Hoa kỳ ( U.S Congressional Gold Medal).

 

Đức độ đáng tôn kính của Đức Dalai Lama thứ 14 đã được cả thế giới khâm phục, từ các vị lãnh đạo các nước dân chủ cho đến mọi người dân ở Bắc Mỹ/ Hoa kỳ và Canada, Anh,Pháp, Đức, Úc v.v.. nên có rất nhiều người đã cải đạo sang Phật giáo Tây Tạng, hay Lạt-Ma giáo, rất đông.”
(Xem thêm bài “Phật giáo như là một triết học hay như là một tôn giáo” của NVT)

 

Không đồng ý với quan điểm áp dụng “Con đường Trung đạo” trong chính trị, Tổng Thống Hoa Kỳ John Adams* (1735 – 1826) đã viết cách đây trên 200 năm rằng:
          “In politics the middle way is none at all
               (Letter to Horatio Gates, 23 Mar. 1776)
            (Trong chính trị, không hề có cái gọi là"con đường trung dung"nào cả".
[* John Adams là vị Tổng Thống thứ 2 của Hoa Kỳ (1797 – 1801), đã là vị Phó Tổng Thống thứ 1 của Hoa Kỳ (1798 – 1797), ông là vị lãnh đạo đã thu hồi nền độc lập Hoa Kỳ khỏi sự lệ thuộc vào nước Anh]

IV.-Khổng Tử - Con đường Trung Dung:
Nho giáo có “tứ thư” là 4 cuốn sách: Đại Học (大學), Luận Ngữ (論語), Trung Dung (中庸 ) và Mạnh Tử (孟子). Trung Dung là quyển sách do Tử Tư (483 – 402 trước CN) làm ra, Tử Tư là học trò của Tăng Tử, là cháu nội của Khổng Tử.

Trọng tâm triết lý của Trung Dung (中庸 )  có điểm tương tự với triết lý trung đạo  của Phật giáo. Trung (中) là ở giữa, tâm điểm, Dung (庸) là bình thường; Trung Dung tức là “không thái quá, không bất cập”, tùy thời mà hành động. Tuy nhiên, biết “trung” cho hợp lẽ là điều rất khó, bậc hiền nhân nhiều khi cũng không theo nỗi.

Người đầu tiên đề cao “đạo trung dung” là Khổng Tử (孔子, 551 trước CN -  479 trước CN), còn Đức Phật Thích-ca đã sống và hoằng pháp ở phía đông tiểu lục địa Ấn Độ vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6 và 4 trước CN.  Theo  Khổng Tử, muốn giữ “đạo trung” thì phải biết quyền biến tùy thời, điều này rất ít người theo được: 

子曰:中庸之为德也,其至矣乎!民鲜久矣
Tử viết:  Trung dung chi vi đức dã, kỳ chí hĩ hồ! Dân tiển cửu hĩ.
dịch: Khổng Tử nói: Trung dung là đạo đức tốt đẹp cao nhất ! Dân chúng từ lâu thiếu hẳn đạo đức này. 

Các môn đệ của Khổng Tử rất phục Ngài và đề cao Ngài là bậc Thánh của “đạo trung dung”, “đạo tùy thời” . Xét cuộc đời của Khổng Tử, chúng ta nhận thấy Ngài đã  thực hiện đúng theo “đạo trung dung”: Khi cần phải nói thì nói, khi cần phải im thì im, lúc cần đi thì đi, lúc cần dừng thì dừng, cần đi nhanh thì đi nhanh, cần đi chậm thì đi chậm, lúc nên làm quan thì làm quan, lúc không nên làm quan thì từ chức, thôi không làm nữa.

V.-Áp dụng thuyết Trung đạo trong cuộc sống hằng ngày:

Chúng ta không nên bám chặt vào một thành kiến, vào một chủ nghĩa, một giáo điều cứng nhắc nào rồi cứ cho những gì mình chọn lựa là đỉnh cao của trí tuệ loài người. Đây là một sai lầm và đưa đến hậu quả là làm hại cho chính mình và làm khổ đau cho bá tánh. Trong đời sống đạo đức hằng ngày, chúng ta nên vận dụng lời Đức Phật dạy về thuyết Trung đạo để thực hành một hướng đi có lợi cho mình và đem lại phúc lợi cho kẻ khác nữa.


Toronto, 02 March 2017
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu  Giáo sư Triết học (1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon.

 

Tài liệu tham khảo chính yếu:


-Đức Phật Thích-ca, Kinh chuyển Pháp luân, dịch và chú bởi NVT, 2016.
-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken, Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại, Phật học Viện Quốc tế ở California phát hành.
-Kyabgon, Traleg, The Essence of Buddhism: An Introduction to its Philosophy and Practice, Boston & London: Shambhala, 2001.
-Mai Thọ Truyền, Phật học đại cương, bài cours cho Tín chỉ Phật học đại cương, Khóa mùa xuân 1964, Viện Cao đẳng Phật học Saigon, in ronéo; bài cours (có bổ sung) cho chứng chỉ Lịch sử triết học Đông Phương, niên khóa 1967 - 1968, ĐHVK Saigon, in ronéo.
-Murti, T.R.V., The Central Philosophy of Buddhism, London: Unwin Paperbacks, First published in 1955, Reprinted in 1987.
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Nguyễn Văn Thọ, Trung Dung bình giảng, bài cours cho Chứng chỉ Triết học Trung Hoa, Đại Học Văn Khoa Saigon, in ronéo, 1968.
-Rahula, Walpola, What the Buddha taught, New York: Grove Press, 1962.
-Thích Chơn Thiện, Phật học Khái luận, California: Thanh Văn, 1992.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thiện Hoa, Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản: Phật Học Viện Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.
-Williams, Paul, Mahayana Buddhism, London: Routledge, First published 1989, Reprinted 1991, 1993.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/12/2020(Xem: 5733)
Bà Thái Việt Phan, người vừa được bầu vào Hội đồng Thành phố Santa Ana, đã sửng sốt khi nhận được thư cảnh báo từ từ ngôi già lam tự viện Phật giáo mà bà từng lui tới. Chùa Hương Tích đã bị xịt sơn và cảnh sát Thành phố Santa Ana đã coi đây là một tội ác gây ra bởi sự thù địch. Đây là ngôi tự viện Phật giáo thứ sáu bị xịt sơn trong khu vực chỉ trong tháng vừa qua.
02/12/2020(Xem: 8811)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật - Trong tâm tình: ''Lắng nghe để hiểu- Nhìn lại để thương'', chúng con, chúng tôi đã thực hiện một buổi phát quà cứu đói cho 294 hộ tại 2 ngôi làng nghèo có tên là Dugarpur & Amobha cách Bồ Đề Đạo Tràng chừng 8 cây số. Xin mời quí vị hảo tâm xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Thành phần quà tặng cho mỗi hộ gồm có: 1 tấm Saree, 10 ký Gạo và bột Chapati, đường, muối dầu ăn và bánh ngọt cho trẻ em, kèm với 200Rupees tiền mặt để mua thêm gạo cho từng hộ GD.(Bên cạnh đó là những phần phụ phí như mướn xe chở hàng, tiền công đóng gói và công thợ khuân vác, tiền quà cho những người bảo vệ và sắp xếp trật tự tại nơi phát chẩn.)
01/12/2020(Xem: 6119)
Cư sĩ Keith Dowman sinh năm 1945, gốc người Anh, tinh hoa Phật giáo, một vị giáo thụ giảng dạy Thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen; 大圓滿), theo truyền thống Ninh Mã, Phật giáo Kim Cương thừa, Mật tông Tây Tạng, dịch giả các kinh điển Phật giáo Tây Tạng. Cư sĩ Keith Dowman đang cư ngụ tại Kathmandu, Nepal, nơi ông đã sống trong 25 năm. Các bản dịch của ông từ tiếng Tây Tạng.
30/11/2020(Xem: 5570)
“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy Ta có thêm ngày nữa để yêu thương” Cảm ơn vì sáng nay tôi còn nghe được tiếng nói, tiếng cười của người thân, bạn bè. Nhìn xuyên qua khe cửa, lá trên cây đã bắt đầu đổi màu, biến những hàng cây xanh ngày nào thành một bức tranh hỗn hợp nhiều sắc màu. Vài cơn gió lành lạnh lại bắt đầu thổi về mang theo bao hồi ức vui buồn lẫn lộn. Tôi lặng lẽ ngồi đây như ngồi giữa thiên đường của thời xa xưa ấy. Tôi luôn biết ơn sâu sắc đến quý Phật tử xa gần đã hỗ trợ và đồng hành cho NVNY trong suốt chặng đường 5 năm qua. Nhất là những thiên thần đáng yêu tại Las Vegas, sớm hôm luôn bay về nâng đỡ cho Ni Viện khi cần. Năm 5 về trước, lần thứ tư tôi đặt chân đến đất nước xinh đẹp vĩ đại này. Tôi tận hưởng vẻ đẹp của những cánh đồng bất tận, nơi an nghỉ của ánh sáng mặt trời, nơi các đóa hoa tỏa hương thơm vào không gian; và tôi khám phá các ngọn núi tuyết cao sừng sững hiên ngang giữa trời đất, ở đó tôi tìm thấy sự thức giấc tươi mát của mùa Xuân, lòng kh
29/11/2020(Xem: 6659)
Cư sĩ Rob Nairn, vị Luật sư, Thẩm phán Trẻ tuổi nhất tại Rhodesia, Giáo sư Phật học uyên thâm, tác giả, nhà nghiên cứu dân số. Ông sinh ra và lớn lên tại Rhodesia. Ông là môn đồ của Phật giáo Kim Cương Thừa Mật tông Tây Tạng, thuộc dòng truyền thừa Karma Kagyu. Cư sĩ Rob Nairn, người đại diện cho Hòa thượng Tiến sĩ Akong Rinpoche tại Châu Phi (Chöje Akong Tulku Rinpoche,1939-2013, người sáng lập Tu viện Samye Ling Scotland), với trách nhiệm giảng dạy 11 Trung tâm Phật học tại bốn quốc gia Châu Phi. Mục tiêu của ông là giảng dạy thiền và Phật giáo Tây Tạng cho tất cả những ai yêu mến đạo Phật, cũng như ở cấp độ đại học và hậu đại học ở các quốc gia như Vương quốc Anh, Ireland, Châu Phi và Hoa Kỳ thông qua các trường Đại học và các Trung tâm Phật học.
28/11/2020(Xem: 5462)
Chàng vẫn thường chê tôi, chỉ giỏi phân tích sự kiện chứ không có đầu óc tổng hợp. Được rồi! Hôm nay tôi sẽ tổng hợp tất cả các bài Pháp của các Vị nói về đề tài nóng bỏng đang thiêu đốt các dân cư mạng, chỉ một bài hát thôi mà số người lướt sóng lên đến hàng chục triệu lần. Chẳng là gì cả, chỉ câu truyện tình liên quan đến chốn Thiền Môn, chàng là ông Thầy Tu, nàng là cô Quận Chúa. Thuở bé nàng vẫn thường theo cha đến Chùa, Tể tướng thì đàm đạo với Đại Hòa Thượng, tiểu thư "nhí" chơi đùa với "tiểu" Hòa Thượng, hay mua kẹo Hồ Lô tặng chú tiểu, cũng một loại "Tình yêu đi qua bao tử". Thế rồi thời gian thấm thoát thoi đưa, sau mười năm cặp đôi này trở thành một đôi trai thanh gái tú. Nàng đòi ở luôn trong Chùa, nhất định không chịu về, Chàng Thầy tu phải đuổi về vì phạm giới luật của một Chùa Tăng. Thế là Nàng ra đi để rồi mất dấu chân chim, một thời gian sau nghe tin Nàng tự vẫn vì bị tên Thái Tử háo sắc làm nhục.
26/11/2020(Xem: 5289)
Chín năm về trước, trang báo điện tử Phật giáo Indonesia “BuddhaZine” đã cùng nhịp bước với thời đại của thế giới thông tin truyền thống với sự tiến bộ của công nghệ internet. Sự hiện diện của “BuddhaZine” như một phương tiện truyền thông Phật giáo trực tuyến, phù hợp với sự phát triển của công nghệ truyền thông hiện đại, bước sang thiên niên kỷ mới này đã quen thuộc với thế hệ trẻ thanh thiếu niên, và đã được sự hoan nghênh đón nhận của cộng đồng Phật giáo và cư dân mạng, trên hành trình khiến “BuddhaZine” trở thành một tổ chức truyền thông quan trọng, và phát triển “Phật pháp với Nhân sinh” (Buddha Dharma, 佛法與人生), trong cộng đồng trên đất nước vạn đảo này.
26/11/2020(Xem: 9761)
“Tinh thần Dân chủ Nhân dân đã trở thành một phần, không thể tách rời trong phạm vi cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này. Điều đó có thể nói là đã ngấm vào tận xương tủy của con người. Nhìn từ sự phát triển của một quốc gia, hay một đất nước phát triển, trên nền tảng chính trị do đa số người dân sống ở một vùng, miền nào đó thực hiện”. Sự phát triển chính trị năng động, cho phép một quốc gia phát triển với tốc độ nhanh. Nói đến Dân chủ, chúng ta cần phải hiểu rằng, Dân chủ thực sự mang lại cho con người quyền tự do biểu đạt, bày tỏ ý kiến, quan điểm, ý tưởng, chính quyền do nhân dân lựa chọn, phản ánh sự lựa chọn của nhân dân, nhà nước do nhân dân làm chủ. Mục đích của Dân chủ là đạt được công lý bình đẳng cho tất cả công dân thông qua sự trung thực, bình đẳng và bình đẳng chính trị.
26/11/2020(Xem: 6752)
Từ hơn chục năm qua tôi vẫn tận dụng từng giờ trong ngày còn lại để nghe pháp, học pháp và chiêm nghiệm về những lời dạy của Cổ nhân hay Giảng Sư sau thời gian cần phải có và cần thiết cho nhu cầu trong đời sống con người.
25/11/2020(Xem: 5887)
Trưởng lão Hòa thượng Napane Pemasiri Thero, Tăng thống Giáo hội Phật giáo Rāmañña Nikāya (රාමඤ්ඤ නිකාය) Sri Lanka, một trong những bậc thạch trụ tòng lâm, cao tăng Phật giáo Nguyên Thủy vừa viên tịch vào ngày 17 tháng 11 năm 2020. Hưởng Thượng thượng thọ 98 xuân. Lễ Quốc tang được tôn trí tại Tòa Nhà Hội Nghị Quốc Tế Bandaranaike (Bandaranaike Memorial International Convention), thành phố Colombo. Lễ truy điệu, trà tỳ hỏa táng vào ngày 22 tháng 11 năm 2020.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]