Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bát Chánh Đạo

24/02/201722:17(Xem: 7962)
Bát Chánh Đạo
Bát Chánh Đạo
 
 GS Nguyễn Vĩnh Thượng

 

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong các bậc cao minh lượng thứ và sẽ phủ chính cho những sai lầm. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả để bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
NVT

 

          Trong bài viết này tôi sẽ trình bày:

           I.-Dẩn nhập.
             II.-Nội dung của Bát Chánh Đạo.
             III.-Kết luận.

 

I.-Dẩn nhập:

   Trong bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật, Ngài đã giảng:
  
"Này các thầy Tỳ Kheo! đến khi Như Lai thấu triệt Bốn Diệu Đế/ Bốn Thánh Đế (insight and understanding of the Four Noble Truths/Four Holy Truths), về 3 phương diện (three stages) và đủ mười hai phương thức(twelve aspects) một cách hoàn toàn sáng tỏ thì đến lúc đó Như Lai mới xác nhận trước thế gian này gồm có cả chư Thiên (Gods), Ma vương (Maras), Phạm thiên (Brahmas), Đạo sĩ (Recluses), Giáo sĩ Bà-la-môn (Brahmans), Con người (Humans) và loài ngoài hạng con người nữa (Some-One) rằng Như Lai đã đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Và rằng lúc ấy tri kiến và nhãn kiến phát sanh thì tâm của Như Lai được giải thoát và không còn lay chuyển. Đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai, Như Lai sẽ không bao giờ tái sanh nữa."
  (Kinh chuyển Pháp luân của Đức Phật, bản dịch và chú của NVT)

Để đạt được "chánh giác" (awakening), con người cần phải chấm dứt dukkha (những điều không bằng lòng, những sầu khổ . . .). Vô minh (ignorance, illusion) là điều đã che mờ sự thấu hiểu Tứ Diệu Đế. Như vậy cần phải dập tắt vô minh để đạt được chánh giác. Chánh giác chỉ có thể đạt được bằng con đường chấm dứt dukkha qua việc thực hành "Con đường có tám chi nhánh" Bát Chánh Đạo (Ariya atthangiko Maggo). Bát Chánh Đạo chính là trọng tâm lời Phật dạy trong Tứ Diệu Đế. Đức Phật gọi Bát Chánh Đạo là con đường ở giữa, vì nó loại bỏ những cực đoan.

 

II.-Nội dung của Bát Chánh Đạo:

 

      Trong bài thuyết pháp đầu tiên Đức Phật giảng:

"Này các thầy Tỳ Kheo! Phép tu hành theo con đường ở giữa mà Như Lai đã ngộ là sự tu hành để phát triển nhãn quan, tri kiến, đưa đến sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và Niết-bàn là gì? – Đó là Bát Chánh Đạo (Hán-Việt. 八正道, Sa. Ārya 'ṣṭāṅga mārgaḥ, Pi. Ariyo aṭṭhaṅgiko maggo, Anh. Eightfold path).
Bát Chánh Đạo là con đường có 8 chi nhánh (eightfold) là: 1.-Chánh Kiến (
正見, Pa. Samma ditthi, Anh. Right view), 2.-Chánh Tư duy (正思唯, Pa. Samma sathkappa, Anh. Right intention), 3.-Chánh Ngữ ( 正語 , Pa. Samma vaca, Anh. Right speech), 4.-Chánh Nghiệp (. 正業 , Pa. Samma kammanta, Anh. Right action), 5.-Chánh Mạng (正命,  Pa. Samma ajiva, Anh. Right Livehood), 6.-Chánh Tinh Tấn (正精進, Pa.Samma Vayama, Anh. Right Effort), 7.-Chánh Niệm (正念, Pa. Samma sati, Anh. Right Mindfulness), 8.-Chánh Định (正定,  Pa. Samma Samadhi, Anh. Right Concentration)."

       Đức Phật dùng chữ Chánh (Samma, Av. right) với ý nghĩa là những gì đúng và thích hợp. Chữ Chánh có thể cùng nghĩa với chữ không ngoan (wise). Như vậy giải pháp chân chánh hay khôn ngoan là những trải nghiệm để biết rằng những hành động nào đem đến hạnh phúc, và những hành động nào đem đến "sự không hài lòng, khổ sở..."

    Bát Chánh Đạo có thể chia thành ba nhóm theo đặc tính thực nghiệm của mỗi chi nhánh:
               A.-Tuệ (Prajna, Av. Wisdom) gồm có:

                          1.-Chánh kiến.
                          2.-Chánh tư duy.
nhóm này nhằm trau dồi, vun trồng trí tuệ để đi đến con đường đạt giác ngộ (awakening).
Chánh kiến nhờ trợ lực của Chánh tư duy mà quan sát đối tượng để nhận định đâu là đúng, đâu là sai.

               B.-Giới/ luân lý (Sila, Av. Morality) gồm có:
                            3.-Chánh ngữ.
                            4.-Chánh nghiệp.
                            5.-Chánh mạng.

nhóm này nhằm trau dồi, vun trồng những hành vi đạo đức tốt như lòng thương người (compassionate heart), tâm từ bi (compassionate mind) qua những gì mình nói, qua những gì mình làm, và qua nghề nghiệp mình chọn lựa để sinh sống.

               C.-Định (Samadhi, Av. Concentration) gồm có:
                             6.-Chánh tinh tấn.
                             7.-Chánh niệm.
                             8.-Chánh định.

nhóm này giúp tập trung vào những đối tượng tốt, thanh tịnh để đạt đến niết-bàn, đến giải thoát.
Chánh tinh tấn là trợ duyên để Chánh định nỗ lực tập trung vào điếu tốt lành. Chánh niệm là trợ duyên để ngăn chặn những giao động giúp Chánh định tập trung vào đối tượng tốt lành.

    Tất cả tám chi của Bát Chánh Đạo đều có sự trợ lực hổ tương nhau, đều liên kết với nhau để làm con đường chấm dứt dukkha.

     Chúng ta cần hiểu rõ ý nghĩa của mỗi bước rồi cố gắng thực hành trong cuộc sống hằng ngày để bánh xe Phật Pháp luân chuyển và đưa chúng ta đến một đời sống tốt đẹp hơn. Sau đây là ý nghĩa mỗi chi nhánh của Bát Chánh Đạo:

1.Chánh kiến là thấy, nghe, nhận thức đứng đắn, ngay thẳng; hiểu sự vô thường trong cuộc đời, những điều kiện không bằng lòng, và những yếu tố tùy thuộc lẫn nhau của cuộc đời đã gây ra những điều không được bằng lòng, những điều bất mãn.
Chánh kiến là hiểu rõ những điều kiện đạo đức và tinh thần để trau dồi chất lượng của tư tưởng, của lời nói và hành động. Chánh kiến loại bỏ những thành kiến.
Chánh kiến là phát triển những điều Đức Phật dạy trong Kinh Chuyển Pháp Luân, là phát triển tri kiến và trí tuệ để biết "nhìn sự vật như là nó hiện có"; đây là những hạt giống của tuệ giác (wisdom) để diệt vô minh và đạt được "Giác ngộ" và "Niết-bàn".

2.-Chánh tư duy  suy nghĩ đúng đắn với lẽ phải, loại bỏ những ý tưởng tham lam, hảm hại, tàn bạo và ác độc đới với người khác; luôn luôn phát triển và trau dồi lòng vị tha, thương người, và có ý đối xử tốt với mọi người, luôn luôn phát khởi ý tốt đối với mọi chúng sanh, luôn nghĩ tới những người đang khổ sở để mang đến đều tốt lành cho họ, để giải thoát khổ đau cho họ.

3.-Chánh ngữ là lời nói phải chân thật, đúng với lẽ phải, bởi vì lời nói có một sức mạnh có thể gây nên điều tốt cũng có thể gây nên sự hảm hại cho người nghe. Con người thường nói những điều mình nghĩ nên Chánh ngữ phải theo sau Chánh tư duy; như vậy phải suy nghĩ cẩn thận trước khi nói ra: "Lời nói chẳng mất tiền mua /Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau."
Theo Đức Phật, muốn thực hành Chánh ngữ thì hành giả phải thực hiện các điều sau:

             -Không nói dối.
             -Không nói đâm thọc.
             -Không nói thêu dệt hai chiều để gây tình cảm thù hận người khác.
             -Không nói điều độc ác.
             -Không nên nói nhiều quá.
Đức Phật khuyên rằng nếu không thể nói điều gì có ích lợi trong một hoàn cảnh nào đó thì tốt hơn hết là "giữ im lặng", bởi vì "im lặng là vàng".

4.-Chánh nghiệp là hành động nào cũng phải phù hợp với lẽ phải, đừng hãm hại bất cứ loài vật nào, bất cứ một người nào, ngay cả đừng có một ý định làm hảm hại người nào.
Chánh tư duy cũng diễn tả, cũng suy nghĩ về chánh nghiệp. Nói khác người có chánh nghiệp là luôn luôn có hành vi đạo đức tốt, tránh gây tổn thương quyền lợi và danh dự của kẻ khác. Đức Phật khuyên rằng để thực hành chánh nghiệp thì cần phải làm những điều sau đây:
               -Không sát sanh, không hại sanh mạng của sinh vật.
               -Không trộm cắp, cướp của.
               -Không tà dâm.
               -Không uống rượu quá nhiều, và dùng ma túy để giải trí.

5.-Chánh mạng là làm một nghề để sinh sống phải tránh làm hảm hại kẻ khác. Phật giáo thường khuyến khích con người loại bớt các tài sản vì nó ràng buộc mình. Thực ra thì cũng không có điều nào cấm cản việc tích trử tiền bạc và sắm các nữ trang quý giá. Tất cả tùy thuộc vào sự liên hệ của tài sản này do đâu mà có. Theo truyền thống thông thường thì sự giàu sang có thể là dấu hiệu của một nghiệp tốt lành (good karma). Tài sản dồi dào cũng có thể giúp hành giả một cơ hội giúp đỡ người khác qua lòng từ bi của hành giả.
Nói khác, Chánh nghiệp đòi hỏi một sự chọn lựa một nghề để kiếm sống mà không gây hại cho mọi người, mọi vật. Chánh nghiệp còn có nghĩa là khuyến khích chúng ta làm một nghề nghiệp gì để giúp đỡ, để đem lợi ích cho người khác.
Đức Phật đã đưa ra các nghề phải tránh như:

                -Không bán vũ khí.
                -Không bán ma túy.
                -Không làm nghề đồ tể.
                 -Không sản xuất đồ uống có độc hại.
      Trong thế giới ngày nay, Chánh mạng có thể gây nhiều sự hiểu lầm khi nghĩ rằng một người muốn chọn một nghề để sinh sống mà không hảm hại và làm tổn thương đến người khác. Có nhiều câu hỏi như:

       -Người pha rượu (bartender) ở quán rượu có hành nghề theo chánh nghiệp hay không?
       -Người quân nhân có chọn nghề nghiệp theo đúng Chánh nghiệp hay không? Sự giết chết quân thù là hành động trái với lời Phật dạy.

       - v...v...

6.-Chánh tinh tấn là kỷ luật tinh thần nhằm chú tâm cố gắng, siêng năng, kiên nhẫn để sử dụng sự cố gắng thích hợp giữa hai cực đoan: một bên là lười biếng, một bên là làm quá sức. Chánh tinh tấn là loại bỏ những thái độ, những tư tưởng không đúng đắn. Chúng ta đã biết rằng Đức Phật đã cố gắng chống lại những trở lực để đi đến chỗ giác ngộ: Ngài đã bị thiếu nữ Mara cám dỗ, nhưng Ngài đã không bị lay chuyển để rồi đi đến chỗ đắc đạo.
    Đức Phật khuyên rằng để thực hành chánh tinh tấn, chúng ta phải làm các việc như sau:

       -Ngăn ngừa và đoạn trừ các điều ác.
       -Chuyên cần làm những điều thiện.

7.-Chánh niệm:

     Chữ Hán Việt "niệm  gồm ở trên có chữ kim 金 hay kim: 今 có nghĩa là hiện tại, bây giờ; và ở dưới là chữ tâm 心 có nghĩa  trái tim, trong lòng. Như vậy chữ niệm có nghĩa là nghĩ, nhớ, mong trong hiện tại. (tiếng Pali là Sati, tiếng Anh là mindfulness).
Niệm còn có nghĩa là chú tâm nghĩ ngợi. Trong Pháp Hoa Kinh  法 華 經  có câu: "Đãn nhất tâm niệm Phật" " 但一心念佛  , nghĩa là chỉ một lòng niệm Phật.
Niệm còn có một nghĩa nữa là đọc, tụng. Ví dụ: niệm kinh     nghĩa là đọc/tụng kinh; niệm thư    nghĩa là đọc sách; niệm Phật     là tưởng nhớ đến danh hiệu Phật.

Niệm (Hán, , Pa. Sati, Anh. mindfulness) là những gì đang gợi lại trong tâm thức ở từng giây phút hiện tại mà không có sự can thiệp của phê phán, tâm thức thấy "sự vật như là nó thật có", tức là không có sự phê phán hoặc tốt hoặc xấu, hoặc không tốt không xấu. Chánh niệm (Right mindfulness) là luôn nghĩ nhớ đến điều lành nên làm, điều ác nên tránh. 
Chánh niệm có nghĩa là phải làm cho đời sống của chúng ta gắn liền với những gì mà ta đang làm trong hiện tại. Ví dụ: khi ăn thì ta chú tâm ăn, khi đọc sách thì ta chú tâm đọc, khi đọc Kinh Phật thì ta chú tâm và kinh Phật, Khi đang lái xe thì chú tâm vào việc lái xe, khi rửa chén thì chú tâm vào việc rửa chén.

Chánh niệm khiến chúng ta gợi lại những điều trong quá khứ, nhất là để tâm vào những điều ta luyến tiếc. Chánh niệm khiến chúng ta nghĩ đến tương lai, nhất là những điều chúng ta đang lo lắng. Rồi Chánh niệm giúp ta trở lại giây phút hiện tại để chú ý vào những điều ta đang muốn và đang xảy ra trong hiện tại và tìm ra một giải pháp thích hợp.

Đức Phật đã thực hành chánh niệm khi Ngài quan sát lại tư tưởng của Ngài, những tình cảm của Ngài, tình trạng sức khỏe của thân xác Ngài và tâm thức của Ngài. Rồi sau đó Ngài tìm "con đường tu hành" thích hợp.

Như vậy, điểm chính của Chánh niệm là không phê phán những trải nghiệm tinh thần như là điều tốt hay như là điều xấu, như là điều muốn làm hay như là điều không muốn làm, như là một điều phải làm hay như là một điều không nên làm. Nói khác, Chánh niệm giúp ta nhận thức "sự vật như là nó có." Rồi nhờ Chánh tinh tấn trợ lực Chánh niệm để thúc đẩy những ý niệm tốt lành được hướng về con đường từ bi hơn.

Trong các tôn giáo khác cũng có những giờ phút suy niệm, nhưng cách thực hành thì khác chánh niệm của Phật giáo.

Ngày nay, Chánh niệm (Right Mindfulness) đã được khoa tâm lý trị liệu áp dụng. Các trường Đại học Y khoa ở Âu Mỹ đã dùng "con đường Chánh niệm" để trị các bệnh tâm thần như căng thẳng (stress), trầm cảm (depression), âu lo (anxiety) ...Chánh niệm đã giúp bịnh nhân nhìn thấy những gì ở quá khứ hiện ra trong hiện tại, hoặc  tưởng tượng những gì ở tương lai hiện ra trong hiện tại như là nó đã thật sự xảy ra một cách không phê phán, hay so sánh với cái khác. Rồi bịnh nhân lần lần không còn bám víu vào cái mình thích và không tránh né những cái mình không thích. Chánh niệm làm giảm dần, và làm biến mất lòng ham muốn, giận dữ, lo sợ, ảo tưởng ... của bịnh nhân, và cuối cùng đem đến một tâm bình an, một trạng thái tốt đẹp.

Chúng ta nên áp dụng Chánh niệm mỗi khi ta có sự giao động trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta để thân tâm được an lạc.

8.-Chánh định:

     Định (定) có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì, vào một đối tượng gì, vào một điểm gì; lúc ấy tinh thần ở trong trạng thái thuần nhất và không giao động. Đạo Phật có phép tu khiến cho tâm tĩnh lặng, không vọng động, gọi là "định"; ví dụ:nhập định 入定, thiền định (禪 定).

Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì tốt lành như lòng từ bi, như  sự vô thường của cuộc đời. Tâm thần của chúng ta được coi như là một tấm gương dính bụi, Chánh định coi như lau chùi tấm gương để tấm gương được sáng tỏ. Nói khác, Chánh định giúp cho tâm thần được sáng sủa để nhìn sự vật như là nó hiện hữu trong thực tại.

Chánh định giúp chúng ta nhìn thấu triệt tính vô thường, tính duyên khởi của mọi sự vật, mọi hoàn cảnh ở đời để giúp chúng ta làm giảm những lo lắng, sợ sệt, nghi ngờ, tham luyến, giận dữ và ảo tưởng về một việc hay một vấn đề nào đó; và nhờ đó cuộc sống của chúng ta sẽ bình an hơn, sẽ khéo léo hơn, và sẽ từ bi hơn để đem lợi ích cho chính chúng ta và cho người khác.

Một kỷ thuật thường được dùng cho phương pháp chánh định một cách đơn giản là tập trung tư tưởng vào hơi thở. Hành giả có thể chú ý vào hơi thở của mình, theo dõi hơi thở ra và theo dõi hơi thở vào. Khi có một vọng động nào kéo đến tâm thức bởi các ý tưởng khác, bởi các hình ảnh khác, bởi các cảm xúc khác thì hành giả đem sự chú ý của mình trở lại sự theo dõi hơi thở mà mình đang thở. Hoặc khi có một ý nào hồi tưởng về quá khứ, hoặc một dự phóng về tương lai xuất hiện thì hành giả phải rời những kỷ niệm trong quá khứ, phải rời khỏi những mơ ước tương lai bằng cách đem sự chú ý, sự tập trung vào hơi thở của mình, theo dõi, tập trung vào hơi thở đang thở ra và thở vô. Cách thực hiện thiền định (禪 定) này gọi là "tập trung tinh thần vào một điểm"(one-pointed mental concentration). Do cách thực hành Chánh định sẽ giúp chúng ta thực hiện Chánh niệm ngay tức khắc.

 

III.-Kết luận:

 

   Việc thực hành Bát Chánh Đạo sẽ giúp chúng ta thấu hiểu một cách thâm sâu Tứ Diệu Dế để diệt trừ dukkha. Bát Chánh Đạo là một hành trình đưa đến sự thức tỉnh (awakening), và đạt được giải thoát (nirvana), thoát khỏi sự luân hồi (samsara).

Một sự thật là cả ngàn năm nay, trong đại đa số con người không có nhiều người được giác ngộ (awakened), nhưng điều chắc chắn rằng việc thực hành 8 chi của Bát Chánh Đạo theo lời Đức Phật đã dạy sẽ giúp chúng ta đem lại nhiều lợi ích. Khi chúng ta thấu hiểu và thực hành các phần khác nhau của Bát Chánh Đạo thì chúng ta cảm thấy rằng chúng ta bớt giận dữ, bớt tham luyến, đối xử với mọi người rộng lượng và khôn ngoan hơn, chúng ta phát huy được tình thương người nhiều hơn, trí tuệ chúng ta được phát triển tinh tế hơn, và nhất là chúng ta cảm thấy bình an trong cuộc sống. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì hành giả có thể thực hành “chi” nào trước cũng được, cần nhất là phải kiên nhẫn, việc thực hành đòi hỏi thời gian.


Toronto,  09 February 2017
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu  Giáo sư Triết học (1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon.

 

**Tài liệu tham khảo chính yếu:


-Đức Phật Thích-caKinh chuyển Pháp luân, dịch và chú bởi NVT, 2016.
-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Bhikkhu Bodhi, The Noble Eightfold Path: The way to the End of Suffering, 1999
                             Source: www.beyondthenet.net/dhamma/nobleeight.htm
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken, Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại, Phật học Viện Quốc tế ở California phát hành.
-Kyabgon, Traleg, The Essence of BuddhismAn Introduction to its Philosophy and Practice, Boston & London: Shambhala, 2001.
-Mai Thọ Truyền, Phật học đại cương, bài cours cho Tín chỉ Phật học đại cương, Khóa mùa Xuân 1964, Viện Cao đẳng Phật học Saigon, in ronéo; bài cours (có bổ sung) cho chứng chỉ Lịch sử triết học Đông Phương, niên khóa 1967 - 1968, ĐHVK Saigon, in ronéo. 
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Rahula, Walpola, What the Buddha taught, New York: Grove Press, 1962.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2011(Xem: 8852)
Từ Ân Thiền Đường là một ngôi chùa nhỏ ở Santa Ana, có những độc đáo riêng, khó tìm được ở nhiều nơi khác.
08/11/2011(Xem: 7477)
Cách ngôn Trung Hoa có câu: ‘Tĩnh tọa thường tư kỷ quá, nhàn đàm mạc thuyết tha phi’, khi ngồi một mình vắng vẻ, hãy thường xuyên suy nghĩ về lỗi lầm của chính mình. Trong lúc đàm luận nhàn rỗi, chớ nên kể lể chuyện xấu của người. Đây là châm ngôn tu thân của người đời. Dù chỉ là người dân thường, nếu ưu tư về lỗi lầm của mình thì có thể cách mạng được cả số phận; còn như một quân vương, nếu thấy được lỗi lầm của mình thì không những thay đổi cả mệnh đời, mà còn thay đổi cả vận mệnh quốc gia, đánh thức toàn trái tim dân tộc, và mãi mãi là tấm gương lịch sử cho những đế vương sau này học theo.
04/11/2011(Xem: 7372)
Chánh điện Chùa Phật Đà, San Diego, rực sáng bởi màu y vàng giải thoát của hàng trăm người “Em” tôi kính quý và thân thương vừa xuất hiện sáng hôm nay. Tôi đã nhìn và đã thấy trên từng nét mặt đoan trang thanh tú, từng nụ cười tươi vui rạng rỡ của các “Em” tôi, những người “Em” tôi vừa mới gặp lại hôm qua sau bao năm trường xa cách. Tôi và Em tôi đã cùng tắm chung gìong suối từ bi thanh lương dịu ngọt. Chúng ta có cùng đại nguyện lên đường để tìm an lạc của bản thân và muôn loài. Vậy là chúng ta đã có rất nhiều nhân duyên liên hệ với nhau từ muôn vạn kiếp. Chúng ta đã cùng gieo hạt từ bi trong nhiều kiếp xa xưa để hôm nay cây trí tuệ đơm hoa kết trái. Chúng ta đang cùng nhau bước vào trong nhà Như Lai, cùng mặc áo Như Lai và đang ngồi toà của Như Lai. Chúng ta đã cạo bỏ râu tóc để cùng về với nhau, mang chung giòng họ Thích, cùng kết duyên quyến thuộc Bồ Đề…
03/11/2011(Xem: 6950)
Tâm của con người vô cùng quan trọng, nó là trung tâm của sự sống, của vũ trụ và chứa nhóm tất cả muôn pháp. Nó là hào lũy ẩn náu của mọi tật xấu, nhưng cũng là mảnh đất phì nhiêu nẩy sanh mầm giống giác ngộ. Vì thế, chính tâm tạo nên hạnh phúc và cũng chính tâm tạo biết bao nỗi khổ đau.
01/11/2011(Xem: 7970)
A lại da thức : A lại da là âm của tiếng Phạn Alaya có nghĩa là cái kho mà danh từ Hán-Việt gọi là tàng. Tất cả mọi chủng tử không phân biệt thiện ác, tốt xấu, sanh tử và niết bàn, mê ngộ và khổ vui, ngay cả vô ký đều được chứa đựng trong tàng thức này.
01/11/2011(Xem: 7549)
Thương khen, ghét chê trong thế gian là việc hết sức bình thường, thích thì khen, không thích thì chê, đố kỵ hơn thua, ganh ghét chê bai. Khen chê là tánh nết có hầu hết trong tất cả mọi người sống trên trần thế, cho nên trong dân gian có câu “Khi thương thì củ ấu cũng tròn, khi ghét thì bồ hòn cũng méo”. Thế mới biết, nghe việc đó tốt chưa nên vội tin vào lời khen mà phải xem lại, cho việc kia xấu nên xét lại ngọn ngành rồi hãy nói. Ông bà mình dạy “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”.
31/10/2011(Xem: 18718)
Nguyên nhân đức Phậtnói bài pháp này, vì tôn giả Vakkali ở nhà thợ gốm, đang bị bịnh nặng, sắp lâmchung, nhưng lòng rất muốn diện kiến dung nhan đức Thế Tôn và đảnh lễ Ngài lầncuối trước khi nhắm mắt lìa đời, nhưng không thể nào đến nơi Thế Tôn ở được,cho nên Tôn giả Vakkali đã cho thị giả đến cung thỉnh đức Thế Tôn đến nơi mìnhở. Vì lòng từ mẫn đức Thế Tôn đã thân hành đến thăm Tỷ kheo Vakkali.
29/10/2011(Xem: 21711)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
24/10/2011(Xem: 6670)
Những lúc ngồi ngẫm nghĩ, tôi lại càng thấm thía câu nói mà ông cha ta đã dạy: “Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm” hay “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”.
24/10/2011(Xem: 6893)
Tôi năm nay đã 95 tuổi, ngày giờ đã đến lúc phải mãn. Tôi cũng cố gắng lắm, kỳ thật những người bạn đồng tu cùng thời với tôi đều đã theo Phật từ lâu. Tôi còn ở trên đời để gặp mặt tất cả các huynh đệ là điều hy hữu lắm. Tôi tuổi đã cao, sức khỏe cũng yếu không thể nói nhiều nên chỉ nói những điều cốt yếu để nhắc nhở tất cả các huynh đệ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]