Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoài niệm Thầy – Nén hương tưởng nhớ - Khi ngài qua bờ bên kia

11/02/201722:02(Xem: 5733)
Hoài niệm Thầy – Nén hương tưởng nhớ - Khi ngài qua bờ bên kia

HOÀI NIỆM THẦY – NGÀY XƯA ẤY!

 

Kính dâng Giác linh Thầy

Cố Ni sư Thích Nữ Trí Hải thùy từ chứng giám

 

Bài đọc trong buổi lễ tưởng niệm cố Ni sư Thích Nữ Trí Hải tại chùa Phổ Hiền, thành phố Worcester – MA – Hoa Kỳ.

 

Thầy ơi!

Nhớ lại ngày nào dưới sân trường Cao cấp Phật học Vạn Hạnh, vào những buổi trưa hè nng bức của thành phố Sài Gòn, Ni sư Thích Nữ Trí Hải, là vị thầy giáo luật của học ni chúng con, với chiếc nón lá bài thơ xứ Huế và tà áo lam, dáng dấy uy nghiêm của một vị thầy giám luật đi từ tư ngoài cổng trường từ tịnh thất Tuệ Uyển qua lớp học. Chỉ thoáng trông bóng của Ni sư, tất cả chị em chúng con ai nấy đều về chỗ của mình để chờ Thầy lên bục giảng. Mỗi lời dạy của Thầy trong Tỳ ni Oai nghi Cảnh sách, trong từng phần của bộ luật Tứ Phần Tỳ kheo ni như còn vang vọng đâu đây. Ngày ấy, cứ mỗi lần đến mùa thi, chị em chúng con ai cũng nơm nớp lo sợ vì những đề thi rất khó của Thầy. Thầy bao giờ cũng cho chúng con cả một biển học mênh mông. Thyầ đã kể cho chúng con nghe những mẩu chuyện đời rất dễ thương. Thầy đã dạy cho chúng con những oai nghi tế hạnh của một người xuất gia. Thầy đã đọc cho chúng con nghe những vần thơ. Ôi! Tất cả lời Thầy là một hành trang đi vào cuộc sống của mỗi chúng con. Giờ đây, chị em chúng con mỗi người một phương trời, ai nấy cũng đều mang theo hình bóng của Thầy như mẫu mực cho ođòi sống phạm hạnh, từng lời dạy của Thầy như là kim chỉ nam để hành đạo. Thầy ơi! Bây chừ Thầy đã không còn nữa, chúng con như đã mất đi một bàn tay chăm sóc, mất đi một người mẹ vỗ về yêu thương, nâng đỡ. Ngày trở về Vạn Hạnh, dưới ánh nắng vàng héo hắt Thầy đã không còn nữa.

Thầy đã đi - Thầy đã đi thật rồi.

Nam mô Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật

 

Một học ni trường Cao cấp Phật học Việt Nam, niên khóa 93-96

Thích Nữ Nguyên Đoan

 

 

 

 

 

NÉN HƯƠNG TƯỞNG NHỚ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải

 

Đối với những người rong chơi trong sanh tử, như một cuộc du hành trong thân cát bụi. Bước chân trên sanh tử như giẫm chân trên trái cầu quay tròn, thênh thang, an lạc. Đây là giấc mộng trong những giấc mộng, nhưng những vị mang tâm hạnh Bồ tát, những vị nhìn thấy tánh Phật nơi mình và người, vẫn đi vào cuộc sanh tử này vì mọi người, vì mang nặng tâm Bồ đề. Những thương yêu, giận hờn, khổ vui, giao tế, danh lợi, tài sắc, vinh nhục, thịnh suy v.v… chỉ là những boôg hoa trổ ra, làm đẹp trên đoạn đường đi trong mộng và giấc mộng có nghĩa là gì! Vì chúng sanh khổ nên người khổ, vì chúng sanh trầm luân nên đôi tay người cứu vớt, trên nét mặt từ bi của họ thể hiện trọn vẹn bà ngàn đại thiên thế giới của tấm lòng và mỗi hạt cát sông Hằng chỉ là mỗi tấm lòng đối với con người. Cho nên, sự Sanh hay Tử chỉ là một giai đoạn mượn tạm dụng cụ thân xác để hoàn thành cái tình yêu cao thượng này. Bài thơ sau như một nén hương dâng lên tưởng nhớ đến Ni sư Thích Nữ Trí Hải vừa viên tịch, vị Thầy khả kính. Tôi đã lặng yên hàng giờ, trong mọi sự im lặng hoàn toàn và sự xúc động tràn dâng khi nghe tin này. Người vẫn còn mãi mãi trong hương trầm mà Người đã đốt, sẽ lan đi và gió sẽ đưa đi … vì bàn tay từ ái đó, vẫn còn ở muôn nơi.

 

                        Đêm nay, ta ngồi đây

                        lắng nghe dòng sông cuộc đời

                        đang cuồn cuộn chảy

                        như từng cơn gió thổi qua

                        có bao lần gió trở lại

                        khi gió đã đi qua!!!

 

                        Đêm nay ta ngồi đây

                        đốt nén hương tưởng niệm

                        như hương xưa người đốt

                        để gió thổi hương đi

                        hương ấm mình qua lá

                        lá xanh ở trên cành,

                        lá vàng còn say sưa

                        hương xoa dịu cuộc đời

                        mắt mỉm cười ngóng trông

                        và Người đương về đâu

 

                        Những người ôm sanh tử

                        như một cuộc rong chơi

                        giữa tro tàn cát bụi

                        thân xác có là gì

                        sống chết có là gì

                        những người đùa sanh tử

                        trong mộng ươm giấc mộng

                        làm no ấm tâm người

 

                        Người đi về nơi đâu

                        vẫn biết rằng sống còn

                        chỉ là trò hư ảo

                        ta vẫn xin khấn nguyện

                        hương trầm xưa Người đốt

                        đem đến cho cuộc đời

                        của bao người khổ nạn

                        bàn tay từ ái đó

                        vẫn còn ở muôn nơi

 

Ngày 09.12.2003

Cư sĩ Liên Hoa (Thanh Minh)

 

 

 

KHI NGÀI QUA BỜ BÊN KIA

Trần Khải (Việt Báo)

 

Ni sư Thích Nữ Trí Hải đã tới với cuộc đời bằng những bước đi thật khiêm tốn, thật nhẹ nhàng và thật dịu dàng, nhưng các bước đi này đã in sâu vào dòng lịch sử dân tộc và vào nên Phật học Việt Nam những dấu ấn khó thể phai mờ. Ni sư Thích Nữ Trí Hải đã viên tịch. Đây là một mất mát không gì đo lường nổi đối với Phật tử Việt Nam. Những gì mà Ni sư đóng góp cho cuộc đời nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể nhìn thấy; đó là những gì người ta không thể thấy bằng mắt thường.

Từ một giáo sư Anh văn, tới một Thư viện trưởng Đại học Vạn Hạnh, tới một người luôn luôn hoạt động vì ồng bào đau khổ, và rồi lui về một góc chùa để dịch kinh sách cho đời sau. Một cuộc đời rất mực đơn giản của một Ni sư. Nhưng những giòng chữ của Ni sư, những hạnh nguyện vào đời của Ni sư đã lập nên một quốc độ rất mực thơ mộng cho người đời sau trên lối đi dò tìm thực tướng cuộc đời.

Thời còn ở trung học, tôi đã may mắn được đọc tiểu thuyết “Câu chuyện giòng sông” do Ni sư, lúc đó ký tên theo thế danh là Phùng Khánh cùng với em là Phùng Thăng, chuyển ngữ sang Việt ngữ. Đây là bản dịch cuốn Siddharta của Herman Hess. Việc lựa chọn tác phẩm này để dịch cũng là một nhân duyên tiền định: con đường đi tìm sự hiểu biết, để lắng nghe dòng sông cuộc đời và và để vượt qua dòng sông sinh tử. Khi gấp sách lại, trong một buổi chiều ngồi nơi sân chùa Xá Lợi, tôi vẫn còn nghe văng vẳng bên tai tiếng giòng sông chảy và như là tiếng ai gọi đò của hơn hai ngàn năm trước.

Một cuốn tiểu thuyết khác do Ni sư dịch, cũng ngay lập tức được giới học trò Việt Nam ưa thích: cuốn “Bắt trẻ đồng xanh”, dịch từ cuốn “The Catcher in The Rye” của J.D. Salinger. Khi sang Hoa Kỳ, một trong những việc đầu tiên mà tôi làm là tìm bản Anh ngữ của cuốn sách này. Không phải cuộc đời này rất mực thơ mộng sao, khi còn giữ tâm hồn trẻ thơ, khi trốn học và chỉ thắc mắc về các con ngỗng, con chim, con vịt trời… nơi một chiếc hồ xứ tuyết.

Không chỉ trên trường văn học, Ni sư vẫn nhiều phen đứng ở hàng đầu các biến động lịch sử của dân tộc và đạo pháp. Ni sư bị bắt trong đợt nhà nước đàn áp Tăng Ni và Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm 1984 và 1985: cùng bị bắt với Ni sư đợt này là quý Hòa Thượng Đức Nhuận, các Thượng Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), Nguyên Giác, Chơn Nguyên, Sư cô Thích Nữ Như Minh, các cư sĩ Phan Văn Ty, Tôn Thất Kỳ, Lê Đăng Pha, Hoàng Văn Cường, Ngô Văn Bạch, v.v… Đến ngày 30.09.1988, toàn thể 21 người bị bắt mới đem ra xét xử trong một phiên tòa trá hình tại Saigon. Hai án tử hình dành cho hai Thượng Tọa Tuệ Sỹ, Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), hai án chung thân cho hai cư sĩ Phan Văn Ty, Tôn Thất Kỳ… Sau vì áp lực quốc tế, nhà nước buộc ân xá hai án tử hình còn 20 năm tù… Khi Ni sư rời nhà tù, mới lui về dịch kinh sách, và nhiều tác phẩm đã được GHPGVN ấn hành.

Chắc chắn là Giáo hội nhà nước, tức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sẽ lúng túng khi in tiểu sử của Ni sư cho một tang lễ trọng đại và đầy đau đớn này. Không lẽ bôi xóa luôn một khoãng nhiều năm trong đời Ni sư?

Nhưng nhìn lại cuộc đời và các tác phẩm của Ni sư, chúng ta sẽ thấy rằng lòng của Ni sư thật sự không có biên giới giáo hội nào. Giáo hội thật sự của Ni sư cũng không lệ thuộc gì tới cả biên giới quốc độ dù đó là Việt Nam hay Ấn Độ… Từ nhiều thập niên, Ni sư đã nhẹ nhàng đứng dậy ra khỏi mọi vướng mắc của cuộc đời, nơi tất cả Sắc Không hết còn gì để ràng buộc, như Ni sư đã viết:

Đã là chân không thì không có sinh tử, khổ vui, mê ngộ. Thấy được như vậy thì luôn luôn ở trong Niết bàn… (Bài “Đường đi không gió lòng sao lạnh”)

Ni sư đã thật sự bước vào Giáo hội Vô Tướng trên núi Linh Thứu, nơi các pháp hội của Phật Thích Ca Mâu Ni vẫn còn tiếp diễn. Ni sư đang đứng trong hàng quý Trưởng lão Ni của những ngàn năm trước, nơi quý ngài lúc nào cũng sống với Thanh Tịnh Pháp Thân.

Giáo hội Vô Tướng vẫn biến khắp, không hề bị hư hoại, dù cho bao nhiêu vùi dập của lịch sử. Bất kể nhiều ngàn ngôi chùa Tây Tạng bị đốt phá, bất kể nhiều ngàn vị sư Trung Hoa và Việt Nam trong nửa thế kỷ qua bị thúc ép hoàn tục, và bất kể mọi mưu đồ xóa tên các Giáo hội tại các quốc độ, Giáo hội Vô Tướng vẫn hiển hiện với người đã Thấy Tánh.

Trong Giáo hội Vô Tướng, chỉ một giáo chủ là Đức Phật. Tất cả quý Tăng Ni Phật tử của các Giáo hội trần gian, nếu tự thân không thể khế nhập được Giáo hội Vô Tướng thì tất đều sẽ lạc vào đường ma cả. Bấy giờ thì lại không chịu thờ Phật mà lại cứ thờ tượng ma, ảnh ma.

Những năm cuối đời, Ni sư đã hiện Ni Tướng trông như là một bà Ni già, ngồi cặm cụi dịch kinh sách, đi làm từ thiện xã hội khi có dịp, chỉ dẫn cho các Học Ni lối đi tu học… Nhưng thật sự Ni sư Trí Hải đã hiện thân vào Giáo hội Vô Tướng của chư Phật. Nơi đó, không còn biên giới ta người hay quốc độ nào nữa; nơi mà mắt của chúng sanh không thể nhìn thấy được.

Ngài đã viên tịch. Mất mát này không gì đo lường được. Đau đớn này không lời nào ghi lại được. Những gì Ngài để lại không gì so sánh được.

Khi Ngài đã bước qua giòng sông sinh tử….

Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha.

 

 

Ý kiến bạn đọc
16/02/201711:06
Khách
Xin cau Ni su Tri Hai ve Phat quoc
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5611)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9144)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5475)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5101)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5696)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6196)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5203)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]