Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mười điểm chứng tỏ Kinh Dịch là sáng tác phẩm của Việt Nam

08/02/201721:17(Xem: 14054)
Mười điểm chứng tỏ Kinh Dịch là sáng tác phẩm của Việt Nam
Thông điệp đầu năm:
 
Mười điểm chứng tỏ KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC PHẨM CỦA VIỆT NAM

 luong-nghi

Xưa nay KINH DỊCH thường được xem là sáng tác của Trung Hoa. ngộ nhận này kéo dài hơn 2500, nay phải được thay đổi cách nhìn để phù hợp với sự thực của lịch sử.

 

KINH DỊCH LÀ SÁNG TÁC CỦA VIỆT NAM, TRUNG QUỐC CHỈ CÓ CÔNG QUẢNG DIỄN VÀ PHỔ BIẾN.

 

 

1-    DIỆC HAY DỊCH

Khi tạo tác KINH DỊCH tiền nhân Việt Nam gọi là DIỆC, tên một loài chim nước giống cò, trên trống đồng Đông Sơn ta thấy khắc những con chim nước đang gắp cá có ghi dấu hiệu DỊCH, đó là một cách bói trước khi thuyền ra khơi xem có được mùa hay không.

Người xưa khi giong thuyền ra sông ra biển để tế lễ hay để săn cá thường hay quen thuộc với hình ảnh những con cò, con diệc kiếm ăn trên bờ nước.Họ lấy kết quả các loài chim đó bắt được mồi hay không để chiêm nghiệm kết quả công việc mình làm. Chim bắt được cá họ nghĩ mình sẽ thành công,chim không bắt được cá họ liên tưởng mình sẽ thất bại, lâu ngày việc chiêm nghiệm này hình thành cách bói gọi là bói Diệc

     Người Việt Nam theo truyền thống vẫn gọi kinh Dịch là kinh Diệc, bói     Dịch là bói Diệc. Trong Tự Điển của Pigneau de Béhaine thế kỷ XVIII chỉ ghi kinh Diệc chứ không ghi kinh Dịch. Cách gọi này còn thịnh hành cho đến nửa đầu thế kỷ XX.

 

 

   

Khổng Tử nói "Cho ta sống thêm mấy năm, đến 50 tuổi để học Dịêc, có thể không phạm lỗi lầm lớn nữa" (Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Dịệc, khả dĩ vô đại quá hỹ) Lỗ Luận Ngữ, Tề Luận Ngữ, Cổ Luận Ngữ, cả ba đều đồng thanh xác nhận đây là lời nói thực của Khổng Tử: "Gia ngã sổ niên, ngũ thập dĩ học Diệc, khả dĩ vô đại quá hỹ". Khổng Tử nói là Diệc chứ không nói là Dịch vì ông là người nước Lỗ nên đọc theo âm nước Lỗ.

 

2-    Trên trống đồng Đông Sơn Thanh Hóa Việt Nam có trước Tả Truyện,

hào dương khắc là vạch liền, hào âm là những vành trắng hay nhiều chấm hoặc nhiều vòng tròn nhỏ.

Dich Trung Hoa cải biên hào âm lại với nhau thành vạch đứt do nối các chấm lại với nhau.

 

3-    Tên các quẻ đơn là thuật ngữ chỉ có thể giải thích bằng tiếng Việt, tiếng Trung lung túng không giải thích được: Càn, can kết lại, Khôn, khôn ngoan chỉ những lổ biết theo ý người gieo hạt mà nẩy mầm, Khảm, nạm vào, cẩn vào, Ly, âm của lửa, Cấn, cấn cái, Chấn, cái trống, Tốn, khuyết hãm ở dưới, Đoài, ao đầm.

 

4-    Theo thuyết tam tài đã có Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ thì phải có Trung Thiên đồ nhưng Trung Hoa không có mà đồ này lại là cốt tủy của Dịch, nó là la bàn để dựa vào đó viết lời hào.

 

 

5-    Việt Nam đã tìm ra Trung Thiên đồ xếp theo vị trí Càn Nam, Đoài Đông Nam, Tốn Đông, Khảm Đông Bắc, Ly Bắc, Cấn Tây Bắc, Chấn Tây, Khôn Tây Nam.

 

 


 

6-    Việt Nam lại tìm ra chứng tích Trung Thiên đồ được mã hóa trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Càn là Lạc Long Quân, Khôn là Âu Cơ, Lạc Long Quân diệt Hồ tinh quẻ Đoài, Mộc tinh Tốn, Ngư tinh Khảm(Long Quân tính thủy Khảm), Ly Âu Cơ tính hỏa, dẫn 50 lên núi quẻ Cấn, tôn người con trưởng quẻ Chấn làm vua hiệu là Hùng Vương.

 

7-    Vị trí các quẻ trên Trung Thiên đồ hoàn toàn ứng với vị trí các luân xa trên cơ thể con người nên ta có thể hiểu rằng tổ tiên Việt Nam đã luyện khí công và thiền định mà giao hội với vũ trụ để viết nên Kinh Dịch người Hoa không hiểu được tại sao lại gọi quẻ Thiên Hỏa là Đồng Nhân chẳng qua là hai quẻ này nằm trên trục tung của Trung Thiên đồ,  Càn ứng với Luân xa Thiên là Thiên môn, Bách hội. Ly Hỏa ứng với huyệt Trường Cường Hỏa Xà, hai Luân xa này hợp nhau thì sẽ hòa đồng với vũ trụ, tiếp đó họ hiểu sai về quẻ Đại hữu là giàu có vật chất, thực ra đó là thành tựu lớn nhất của hành giả luyện công.

 

 

 

 

8-    Trong mỗi quẻ lời hào là một khối liên hoàn, nói cùng một chủ đề chứ không rời rạt như Dịch Trung Hoa quan niệm

 

9-    Truyền thuyết Phục Hy vẽ bát quái không có thực, thuyết khởi nguyên Kinh Dịch của Khuất Vạn Lý, Trương Chính Lãng không thuyết phục vì không phù hợp với cơ chế cấu tạo Kinh Dịch.

 

 

10-                       TỬ HUYỆT VĂN VƯƠNG, việc cho Văn Vương vẽ Hậu Thiên đồ và viết quái hào từ Kinh Dịch lại càng chứng tỏ rõ rệt Trung Quốc không thể là người sáng tạo Kinh Dịch vì theo tam tài bao giờ cũng có ba cái đi liền nhau, đã có Tiên Thiên đồ thì phải có Hậu Thiên đồ tiếp đó là Trung Thiên đồ không hề có chuyện Phục Hy làm ra Tiên Thiên đồ từ 4000 năm trước rồi 2000 năm sau Văn Vương mới tà tà làm Hậu Thiên đồ thì còn chi là Dịch, là tam tài.

 

 

THÔNG ĐIỆP:

Người Việt Nam phải biết trân quí di sản của tiền nhân, chúng ta phải xóa mặc cảm tự ti, đón nhận KINH DỊCH trở về với dân tộc.

Kinh Dịch là ánh dương rực sáng soi rõ thời Sơ Sử của nước ta bấy lâu bị nhận chìm trong cõi huyền sử mờ ảo.

Kinh Dịch là văn bản chính thức xác thực khẳng định sự hiện hữu tất yếu của Thời đại Hùng Vương ở những trang đầu của lịch sử mở nước của dân tộc ta.

Kinh Dịch xác nhận truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ là trang Quốc phả của Việt Nam với bờ cõi mênh mông tới tận Nam Dương Tử, tồn tại từ hơn 5000 năm trước.

Kinh Dịch giúp ta chấm dứt tiếng than dài phi lý của các nhà viết sử Việt Nam, thời thượng cổ nước ta không có chữ, xóa bỏ án oan cho tiền nhân “HỌC MƯỢN VIẾT NHỜ” mà lẽ ra đó là chuyện của dân Hoa Hán. Vì chữ tượng hình để viết Kinh Dịch đương nhiên là chữ do người Việt sáng tạo.

Tác động của Kinh Dịch ảnh hưởng trùm phủ văn minh Đông Phương, xác nhận VĂM MINH ĐÔNG PHƯƠNG xuất phát từ người Lạc Việt.

Người Việt Nam có bổn phận đón nhận Kinh Dịch để bảo vệ danh dự của dân tộc và trả lại công bằng cho Tổ Tiên.

 

                                                                                      Nguyễn Thiếu Dũng

 

 

.

 

Ý kiến bạn đọc
09/01/201907:43
Khách
Trong nghiên cứu của giáo sư Hoàng Tuấn về Kinh Dịch và hệ nhị phân (Tuấn, 2002), cho thấy rằng Kinh Dịch có nguồn gốc Bách Việt cổ. Song, có một số lý giải bổ sung:
- Lạc Thư (Ma phương vô cực, cân bằng thuận): là hình vuông (đất, nguyên hàm trong toán học, trạng thái tĩnh), thể hiện sự đối xứng qua tâm số 5, nhưng trong lạc thư dịch số thì từ số 1 đến số 9 đều có sự cân bằng đối xứng nếu quy đổi số 10 tương đương số 1 (số bắt đầu)
- Hà đồ (Ma phương vô cực, cân bằng nghịch): là hình tròn (trời, đạo hàm trong toán học, trạng thái động ổn định), thể hiện sự cân bằng tại bốn vị trí -6+1 = -5 (âm Thủy); -8+3 = -5 (âm Mộc); +7-2 = +5 (dương Hỏa); +9-4 = +5 (dương Kim), tương ứng trục hoành (từ âm Thủy đến dương Hỏa) và trục tung (từ âm Mộc đến dương Kim) và Thổ ở vị trí trung tâm là số 5, nhưng hình Hà 10 châm đen (số âm) và 5 chấm trắng (số dương), như vậy vị trí trung tâm của hành Thổ -10+5 = -5 --> Thiếu mất một yếu tố để cân bằng với hành Thổ để tạo thành 03 trục cân bằng: Thủy = Hỏa; Mộc = Kim; Thổ = ... (âm + dương) x 3 trục = 6 yếu tố.
- Lạc Thư thể hiện Hậu Thiên bát quái (2^3 = 8 mặt ở trạng thái tĩnh), Hà Đồ thể hiện Tiên Thiên bát quái ( 2x3 = 6 yếu tố liên kết ở trạng thái động) --> Trung Thiên đồ phải là sự kết hợp cả hai Lạc Thư và Hà Đồ.
25/08/201802:41
Khách
Hãy đọc thuyết việt nho của cố GS Kim Định nó rõ như ban ngày vậy
09/07/201820:45
Khách
nhẵm nhí. Chỉ vì tự ái dân tộc mà luật đoán như vậy thì làm sao mà tiến bộ được.
28/05/201801:51
Khách
Cho em hỏi Trung Thiên đồ có áp dụng được vào Tử Vi hoặc phong thủy được không ạ?
12/04/201802:41
Khách
Tham khảo ý kiến của bạn đọc để làm gì?!
11/04/201817:26
Khách
Dịch lấy cốt lõi từ thuyết âm_dương mà thuyết âm_dương có nguồn gốc từ nền Văn Minh lúa nước và Việt Nam là cái nôi của nền Văn Minh lúa nước thì Kinh dịch có nguồn gốc từ Việt Nam là có cơ sở. Tuy nhiên cần nhiều bằng chứng lịch sử và khảo cổ để chứng minh chứ không thể chỉ dựa vào truyền thuyết vì bản thân Kinh dịch là mã nguồn mở nên chúng ta rất dễ suy diễn.
12/01/201810:42
Khách
Theo tôi nên dịch bài này ra tiếng Trung và tiếng Anh cho mọi người biết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/09/2020(Xem: 6713)
Thiền sư Minh Am Vinh Tây (明菴榮西), (1141-1215), Đạo hiệu Minh Am (道號明庵), Phòng hiệu Diệp Thượng Phòng (房號葉上房), Vị giai Quyền Tăng Chính (位階權僧正), Phong hiệu đại Hòa thượng Pháp Ấn (封號法印大和尚), Tôn xưng Thiền sư Vinh Tây (尊稱榮西禪師), Thụy hiện Quốc sư Thiên Quang (諡號千光國師), Trú tích tại Thánh Phúc Tự, Kiến Nhân Tự, khai sơn Kiến Nhân Tự, vị cao Tăng Phật giáo thời đại Liêm Thương tại Nhật Bản (1185-1333), Ngài được tôn vinh đệ nhất Tổ trồng Trà hay thủy Tổ Trà đạo, Thủy Tổ Thiền phái Lâm Tế tại Nhật Bản (是日本臨濟宗的初祖), là người có công truyền thừa dòng Thiền phái Lâm Tế vào Nhật Bản. Ngài kết hợp giáo lý đạo Phật với văn hóa bản địa Nhật Bản; Ngài củng cố mối quan hệ Trung-Nhật.
06/09/2020(Xem: 8111)
Trì danh “Quán Thế Âm Bồ-tát” (Nếu tâm hồn biết thầm lặng tự kết bạn với các nhà hiền triết tâm linh, thì điều mầu nhiệm sẽ xảy ra, là tâm hồn giảm bớt rất nhiều khổ đau-xấu ác-mê lầm) Trì danh Ngài Quán Thế Âm Trí-bi hội nhập Chân Tâm đất trời Vơi bao nghiệp chướng cõi đời Ngày về Tịnh độ tiếp lời Tâm kinh… Niệm thầm theo hơi thở thiền Tháng ngày an lạc như hiền triết xưa Trăng tâm lặng lẽ bốn mùa Hương trà thấp thoáng Chân Như vĩnh hằng.
05/09/2020(Xem: 5760)
Trước, lúc mà Cạp mỗ ngẫu hứng chĩa một ngón tay vào ngoáy rốn pho tượng ngài Bố Đại Hòa Thượng (được cho là hóa thân của đức Di Lặc Tôn Phật) ở một ngôi chùa miền quê thanh vắng, để cho người bạn chụp ảnh lưu niệm, xem lại ngay trên máy, liền bật cười và quất ngay mấy câu lục bát: Ta cười suốt tháng quanh năm Cười ba vạn kiếp số hằng hà sa Cù léc rốn, xức cù là? Dụng công chi rứa bởi ta vốn cười!
04/09/2020(Xem: 6509)
' Cha là Phật giữa đường trần Mẹ là Phật giữa vạn lần ngược xuôi.. Đêm đêm thắp ngọn đèn trời Cầu cho Cha Mẹ sống đời với con..''
04/09/2020(Xem: 6603)
Nam-mô Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật! Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni! Kính thưa quý vị Phật tử! Nhân mùa Vu-lan năm 2020, con xin đảnh lễ, kính chúc chư Tôn đức Tăng Ni thêm một tuổi đạo, thành công hơn nữa trong các Phật sự, nhằm mang lại lợi ích và phúc lạc cho nhân sinh. Con kính chúc các bậc làm cha mẹ thêm một tuổi đời, làm nền tảng đạo đức và hạnh phúc cho con cháu trong gia đình và họ tộc. Con kính chúc tất cả các anh chị, các cháu thanh thiếu niên, đề cao đạo lý hiếu kính cha mẹ ông bà, thể hiện tinh thần tự lập, xa lánh các thói hư tật xấu, các thói quen nghiện ngập, hưởng thụ ăn chơi, để sống một cuộc đời hữu ích, và làm cho cha mẹ được hạnh phúc hiện tiền. Nhờ đó, có một tương lai tươi sáng.
04/09/2020(Xem: 8353)
Mật hạnh là pháp môn bất nhị tăng thêm phẩm hạnh, viên mãn đạo đức. Ví như ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh của Đức Phật; mỗi ngày cầm bình bát khất thực, rửa chân ngồi thiền, hành hóa thuyết pháp, khiến chúng sinh nhập Phật tri kiến, chính là mật hạnh; lại ví như La-hầu-la (Rāhula) sám hối sửa lỗi, giữ vững thanh tịnh giới hạnh, trở thành đệ nhất mật hạnh trong đệ tử Phật; Đại Ca-diếp trú ở xứ Lan-nhã, tịch tịnh thiểu dục, trên hội Linh Sơn1 diệu khế chân như pháp tính, cũng là mật hạnh; Tu-bồ-đề (Subhūti) quán không nghênh Phật, cũng là mật hạnh. Những việc làm nghĩa tình của người xưa như chia cháo cứu đói, xây cầu làm đường, đào giếng lấy nước, thắp đèn dâng trà, bố thí quan tài cho người chết, cứu trợ giúp đỡ, đều là mật hạnh gieo trồng phước đức. Gọi là “lân nga bất điểm đăng, vi thử thường lưu phạn” (vì thương những con thiêu thân không đốt đèn vào ban đêm, vì sợ chuột không có thức ăn thường để lại một ít thức ăn), tức là khắc họa (miêu tả) tốt nhất về lòng từ bi rộng khắ
02/09/2020(Xem: 6378)
Á hậu Trương Thị May lễ chùa, phóng sinh mùa Vu lan Chị em Á hậu Trương Thị May cùng mẹ và bà ngoại mặc đồ lam, áo dài đi lễ chùa, phóng sinh dịp Vu Lan.
02/09/2020(Xem: 6952)
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng. Ảnh: hindustantimes.com Theo truyền thông quốc gia Trung Hoa đưa tin hôm thứ Bảy, ngày 29 tháng 8 vừa qua, Ngài Chủ tịch Tập Cận Bình đã phát ngôn kiên quyết kêu gọi về việc “Hán hóa” (Sinicization,漢化) Phật giáo Tây Tạng tại Tây Tạng.
30/08/2020(Xem: 7224)
Tựa bài không có gì mời gọi người đọc, nên có lẽ, chỉ vị nào đang rảnh rang lắm mới thử lướt xuống xem, viết cái gì vậy? Hay chỉ là thực đơn của tiệm bánh nào bay lạc vào? Xin nghiêm túc thưa, đây là lời mở đầu một lần giảng pháp của giảng sư, trong một mùa An Cư Kiết Hạ tại Nam Cali.
30/08/2020(Xem: 7604)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]