Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chúa Nguyễn khởi nghiệp với những ngôi chùa

01/02/201721:28(Xem: 8422)
Chúa Nguyễn khởi nghiệp với những ngôi chùa
Chúa Nguyễn khởi nghiệp với những ngôi chùa
Châu Yến Loan

 

Với chủ trương dùng Phật giáo để cố kết nhân tâm, và làm nền tảng tinh thần cho xã hội,  dưới thời chúa Nguyễn, Phật giáo ở Đàng Trong rất phát triển. Nhiều chùa chiền được xây dựng, nhiều thiền sư danh tiếng đã đến hoằng pháp. Có thể nói rằng chúa Nguyễn đã khởi dựng sự nghiệp vĩ đại của mình với những ngôi chùa.

Năm Quý Tỵ (1593), Trịnh Tùng đánh thắng Mạc Mậu Hợp, rước vua Lê trở về Đông Đô (Thăng Long) Nguyễn Hoàng đem tướng sĩ, voi ngựa, binh thuyền ra kinh đô mừng vua Lê và dâng nạp sổ sách binh lương, của cải, vàng bạc, châu ngọc và kho tàng hai trấn Thuận Hóa, Quảng Nam, ông được vua Lê an ủi vỗ về, vua nói: “Khanh trấn nhậm hai xứ, lòng dân được yên, công ấy rất lớn” và tấn phong làm Trung quân Đô đốc phủ, Tả Đô đốc chưởng phủ sự Thái Uý Đoan Quốc Công.

Bấy giờ nhà Lê tuy đã lấy lại Thăng Long, nhưng quân Mạc vẫn còn chiếm cứ nhiều nơi và thường xuyên nổi dậy đánh phá, Nguyễn Hoàng cùng hai con là Hán (công tử thứ hai, làm quan với nhà Lê chức Tả Đô đốc Lỵ Quận Công) và Diễn (công tử thứ tư, làm quan với nhà Lê chức Tả Đô đốc Hào Quận Công) phải vất vả đem quân đi đánh dẹp và hai người con của ông đã lần lượt hy sinh trong công cuộc giúp vua Lê bình định đất Bắc.

Vào tháng 4 năm Kỷ Hợi (1599) Trịnh Tùng được vua Lê tấn phong Đô Nguyên súy tổng quốc chính thượng phụ Bình An Vương, một tước hiệu mà trước đây chỉ dành cho người trong hoàng tộc, cho ngọc toán (thìa ngọc) làm vật báu lưu truyền, lại cho ruộng để phong ấp. Trịnh Tùng lập ra phủ chúa, đặt quan lại riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương với lục bộ của triều vua. Phủ chúa toàn quyền bổ dụng quan lại, thu thuế, bắt lính, quyết định chính sự, vua Lê ở trong thâm cung, chỉ có mặt trong những dịp lễ long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tàu mà thôi.

Nguyễn Hoàng ở Đông Đô tám năm đi đánh dẹp nhiều nơi, lập nhiều chiến công được lắm người nể nang, kính phục khiến Trịnh Tùng lo ngại nên muốn cầm chân ông ở  Đông Đô không cho trở về Thuận Hóa vì sợ “thả hổ về rừng”

Bốn tháng sau (tháng 8 năm 1599) vua Lê băng hà, Trịnh Tùng và một số quần thần cùng phe cánh bảo rằng Thế tử “kém thông minh” nên tấn phong con thứ là Duy Tân mới mười hai tuổi lên nối ngôi, Trịnh Tùng làm Nhiếp chính đoạt hết mọi quyền hành. Âm mưu tiếm quyền của Trịnh Tùng đã lộ rõ, Nguyễn Hoàng  quyết định trở về Nam .

Năm Canh Tý (1600) nhân các tướng nhà Lê là Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê làm phản ở cửa Đại An (nay thuộc Nam Định), Nguyễn Hoàng xin đi đánh dẹp rồi đem tướng sĩ, binh thuyền theo đường biển trở về Thuận Hoá. Ông đã để người con trai thứ năm là Nguyễn Hải và cháu nội là Nguyễn Hắc ở lại làm con tin. Sau sự kiện này, vua Lê vẫn để cho Nguyễn Hoàng Trấn thủ phương Nam như trước và thu thuế cho triều đình. Trịnh Tùng cũng gởi thư khuyên Nguyễn Hoàng giữ việc thuế cống. Nguyễn Hoàng hậu đãi sứ giả, sai sứ đi tạ ơn vua Lê và gởi thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia. 

Trở về Thuận Hóa, ông cho dời dinh sang phía Đông dinh Ái Tử, gọi là Dinh Cát. Tháng 10, gả con gái Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả Trịnh Tùng) để yên mặt Bắc mà rảnh tay quay về phương Nam mở rộng hậu phương, tính kế lâu dài.

Vậy là sau những năm đối đầu với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, Nguyễn Hoàng đã nhận thức khá sâu sắc diễn biến chính trị đang diễn ra trong triều đình Lê - Trịnh nên quyết định mở một con đường khác về phương Nam, xây dựng mảnh đất này thành một giang sơn riêng của dòng họ Nguyễn, tập hợp lực lượng chuẩn bị chống lại họ Trịnh. Từ Đông Đô trở về, Nguyễn Hoàng bắt đầu phát triển Phật giáo, những ngôi chùa do ông xây dựng trong buổi đầu dựng nước đánh dấu từng bước khởi nghiệp của ông.

Năm Tân Sửu 1601, Nguyễn Hoàng xây chùa Thiên Mụ. Chùa Thiên Mụ còn gọi là chùa Linh Mụ nằm trên đồi Hà Khê, ở tả ngạn sông Hương thuộc làng An Ninh thượng , phường Kim Long, cách thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây.

Theo truyền thuyết khi Nguyễn Hoàng cưỡi ngựa dọc theo bờ sông Hương ngược lên thượng nguồn để xem xét địa thế, ông đã bắt gặp một ngọn đồi nhỏ bên dòng nước trong xanh, thế đất có hình như con rồng đang quay đầu nhìn lại, đó là đồi Hà Khê. Người dân địa phương kể rằng nơi đây  ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn. Tư tưởng của Nguyễn Hoàng muốn tạo dựng một cơ đồ riêng cũng phù hợp với ý nguyện của dân chúng lúc bấy giờ muốn có một vị chân chúa nên Nguyễn Hoàng đã cho xây ngôi chùa trên đồi Hà Khê đặt tên là chùa Thiên Mụ để tác động tâm lý của quần chúng, ngầm gieo vào lòng người một niềm tin rằng ông chính là vị chân chúa mà họ đang mong đợi.

Lúc đầu chùa còn đơn sơ, dần dần các chúa Nguyễn nối tiếp nhau trùng tu, xây dựng thêm các công trình huy hoàng tráng lệ.

chua-thien-mu

Chùa Thiên Mụ

 

Năm 1602 Nguyễn Hoàng đi chơi núi Hải vân, thấy một dải núi cao giăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: “Chỗ này là đất yết hầu của miền Thuận Quảngnên quyết định dựng Trấn dinh ở xã Cần Húc, xây kho tàng, chứa lương thực,  cử Hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên trấn giữ và dựng chùa Long Hưng ở phía đông trấn. ( ĐNTL, nxb Giáo Dục 2002, T1, tr 36). Sau đó Dinh Quảng Nam được dời về làng Thanh Chiêm.

Lập Dinh trấn Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã có một quyết định khác thường hiếm thấy trong lịch sử, đó là giao toàn quyền định đoạt mọi việc cho Dinh trấn Quảng Nam, tạo cho Quảng Nam những điều kiện tối ưu để phát triển thành một hậu phương vững chắc cho Thuận Hóa  và làm bàn đạp cho các vị chúa kế tiếp mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Chùa Long Hưng ra đời đánh dấu bước khởi nghiệp tiếp theo vô cùng quan trọng của Nguyễn Hoàng là lập một kinh đô thứ hai của xứ Đàng Trong sau Phú Xuân.

Chùa Long Hưng hiện nay không còn. Ở cánh đồng của thôn Triêm Đông, gần kề với Mô súng, có một vùng đất cao gọi là Vườn Chùa. Tục truyền rằng nơi đây xưa kia là nền đất của chùa Long Hưng. Về sau do bị hư nát nên chùa Long Hưng không còn được sử dụng nữa. Một ngôi chùa mới được dựng lên ở xứ đất Hà Chưng nội có tên là Hội Phước Tự. Vườn Chùa giao cho chùa Hội Phước quản lý. Năm Đinh Mùi 1607 dựng chùa Bảo Châu ở Trà Kiệu (thuộc Quảng Nam).

Năm Kỷ Dậu 1609 dựng chùa Kính Thiên ở phường Thuận Trạch, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình.

Chính sách của Nguyễn Hoàng đối với Phật giáo được các chúa Nguyễn về sau  tiếp tục. Từ Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đến chúa Nguyễn Phúc Thuần đều là những Phật tử thuần thành hết lòng mộ đạo vì thế dưới thời chúa Nguyễn, Phật giáo ở Đàng Trong phát triển mạnh mẽ đặc biệt dưới thời Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu.

Năm 1710, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc đại hồng chung tại chùa Thiên Mụ nặng 3.285 cân, là một tác phẩm mỹ thuật quí giá. Sớm sớm, chiều chiều tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga vang vọng đã đi vào lòng người và thơ ca xứ Huế biểu tượng cho vẻ đẹp nên thơ của miền đất thần kinh:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương

Năm 1714, Quốc chúa còn trùng tu chùa Thiên Mụ với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vươngđiện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền v.v… cho người sang Trung Quốc mua hơn 1.000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, thỉnh mời Thiền Sư Thạch Liêm Thích Đại Sán sang  Đàng Trong lập Giới đàn truyền các giới Sa di, Tỳ kheo và Bồ Tát giới. Chúa Nguyễn Phúc Chu được truyền riêng một giới đàn và ngài Thạch Liêm đặt pháp danh cho chúa là Hưng Long, biệt hiệu Thiên Túng Đạo Nhơn.

Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua. Chùa Linh Mụ trở thành ngôi chùa đẹp nhất của Xứ Đàng Trong.

Việc xây chùa, chấn hưng Phật giáo của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng dù xuất phát từ động cơ chính trị, nhưng Chúa đã khéo vận dụng một sách lược khôn ngoan, sáng suốt để thu phục nhân tâm, bình ổn xã hội ở vùng “Ô châu ác địa”, dùng chánh pháp để an dân, cố kết lòng người trong buổi đầu khởi nghiệp . Do đó mà Phật giáo trở thành chỗ dựa tinh thần không thể thiếu của người dân trong việc khai hoang lập ấp, làm ăn sinh sống nơi xứ lạ quê người nhiều rủi ro bất trắc. 

Những ngôi chùa đã đồng hành với chúa Tiên trong buổi đầu dựng nước đầy gian khổ của dân tộc. Kế thừa chính sách tôn giáo của tổ tiên, từ Chúa Sãi Nguyến Phúc Nguyên trở về sau, các chúa đều là những Phật tử thuần thành hết lòng mộ đạo nên Phật Giáo ngày càng phát triển mạnh mẽ, rất nhiều ngôi chùa được dựng lên cùng với bước chân của đoàn quân chúa Nguyễn đi mở đất phơng Nam.

 

                                                                                                Châu Yến Loan

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 9544)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6830)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 9237)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5612)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5530)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6272)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4805)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5405)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 5015)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5927)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]