Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngũ Uẩn

29/01/201720:16(Xem: 9280)
Ngũ Uẩn
Ngũ Uẩn
 
GS  Nguyễn Vĩnh Thượng
ngu-uan

 

Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong các bậc cao minh lượng thứ và sẽ phủ chính cho những sai lầm. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả để bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi.
NVT

 

Trong bài viết này sẽ được trình bày như sau:

I.-Định nghĩa: Ngũ Uẩn.
II.- Nội dung của thuyết Ngũ Uẩn.
III.- Nhận xét: Lời Phật dạy trong thuyết Ngũ Uẩn.
IV.-Kết luận.

 

I.-Định nghĩa: Ngũ Uẩn.

       Đức Phật Thích-ca đã nhiều lần giảng về Ngũ Uẩn, từ Kinh chuyển pháp luân đến các bài thuyết pháp sau này.
       Ngũ Uẩn (五 蘊, Sa. Pañca-skandha, Pi. Pañca-khandha, Av. Five Aggregates/ Five psycho-physical condition groups), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰). Trong tiếng Sanskrit thì panca = số 5, skandha = nhóm; người Trung Hoa dịch chữ skandha là uẩn, có nghĩa là tích tụ, nơi các điều, các sự kiện được chứa đựng.
Ngũ Uẩn là 5 nhóm kết hợp lại để tạo thành con người: - phần vật chất có hình dáng gọi là 1. Sắc Uẩn; - phần tâm lý không có hình dáng, gồm có 4 uẩn là 2.thọ uẩn, 3.tưởng  uẩn, 4.hành uẩn, 5.thức uẩn.

 

II.-Nội dung của thuyết Ngũ Uẩn.

Ngũ Uẩn gồm có 5 nhóm:

1.-Sắc Uẩn (色; Sa., Pa. rūpa, Av. aggregate of form) là nhóm yếu tố tạo nên phần vật chất và sinh lý của con người: - về vật chất thì gồm có tứ đại chủng/ 4 nguyên tố lớn (Sa., Pa.. mahābhūta,Av. four great elements): đất, nước, gió, lửa. Do sự kết hợp của 4 nguyên tố này nên con người được tạo thành, đó là phần sinh lý gồm có 5 giác quan (5 physical organs), người Trung Hoa gọi là ngũ căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân; eye, ear, nose, tongue, body), và các đối tượng vật chất tương ứng của ngũ giác quan, người Trung Hoa gọi là trần (physical objets), có 5 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc ( vật nhìn thấy được, âm thanh, hương thơm, mùi vị và cảm giác; sight, sound, smell/odor, taste, and tangible objects). Như vậy, trần gồm có:
                  1. Sắc trần (sight) là hình dáng, màu sắc mà mắt thấy được.
                  2.Thanh trần (sound) là tiếng mà tai nghe được.
                  3.Hương trần (smell/ odor) là hương vị do mũi ngửi.
                  4.Vị trần (taste) là mùi vị do lưỡi nếm.
                  5.Xúc trần (tangible things) là cảm giác do thân xác biết được như cứng, mềm, nóng, lạnh.

2.-Thọ uẩn (受, Sa., Pa. vedanā, Av. aggregate of feeling/sensation) là nhóm cảm giác sinh ra do sự tiếp xúc giữa 5 giác quan và 5 đối tượng tương ứng. Cảm giác có 3 loại: hoặc là dễ chịu, hoặc là khó chịu, hoặc là trung tính. Cảm giác thì khác nhau từ người này đến người khác: chúng ta thường không có cảm giác giống nhau về cùng một đối tượng. Ngay cả cảm giác của chính một người cũng có thể thay đổi theo thời gian và không gian.

3.Tưởng uẩn ( 想, Sa. saṃjñā, Pa. saññā, Av.aggregate of perception), là nhóm nhận thức được cả hai đối tượng vật chất và tinh thần. Khi tiếp xúc với đối tượng, tưởng uẩn nhận thức được đặc tính của đối tượng, giúp ta ghi nhớ đối tượng. Ví dụ thấy lửa ta nhận biết là nóng; nói tới cây dừa, ta biết hình dáng của cây dừa, ta biết màu xanh của lá dừa.

4.Hành uẩn ( 行, Sa. saṃskāra, Pa. saṅkhāra, Av. aggregate of mental information) là nhóm gồm tất cả các yếu tố tâm thần (mental factors) trừ thọ uẩn (feeling) và tưởng uẩn (perception). Hành uẩn là sự phản hồi có điều kiện với những đối tượng của kinh nghiệm, của những gì đã trải nghiệm qua. Những sự phản hồi này có những hậu quả luân lý như có thể tốt (thiện), có thể xấu (ác) hoặc không tốt không xấu (vô ký). Hành uẩn sẽ không có một sự thay đổi về một hành động nào cả trừ khi chúng ta có một sự chủ ý (intention), một sự chọn lựa (choice) và một hành động (action).

5.Thức uẩn ( 識, Sa. vijñāna, Pa. viññāṇa, Av. aggregate of consciousness):

Ý thức là khả năng nhận biết trực tiếp các hiện tượng nội giới và ngoại giới. Ý thức là mọi trường hợp mà các yếu tố tâm linh (mental factors) xuất hiện. Không có ý thức thì không có những yếu tố tâm linh vì tất cả các yếu tố tâm linh hay các sự kiện tâm lý thì liên kết với nhau (inter-related), tùy thuộc với nhau (inter-dependent), và cùng tương liên hiện hữu (co-existent). Đối tượng của thức Uẩn là tư tưởng và ý tưởng (thoughts and ideas), Đức Phật gọi Ý thức là thức thứ 6.
Thức Uẩn có 6 loại như sau:
         1.Nhãn thức (eye consciousness) là cái biết của mắt.
           2.Nhĩ thức (ear consciousness) là cái biết của lỗ tai.
           3.Tỷ thức (nose consciousness) là cái biết của mũi.
           4.Thiệt thức (tongue consciousness) là cái biết của lưỡi.
           5.Thân thức (body consciousness) là cái biết của thân thể.
           5.Ý thức (mind consciousness) là cái biết của Ý/ tâm (mind consciousness) về tư tưởng và ý tưởng.

Như vậy, ý thức/ tâm thức (mind consciousness) đóng một vai trò quan trọng trong tất cả các sinh hoạt tâm linh. 5 thức trước không có sự liên hệ với nhau, nhưng ý thức / tâm thức - thức thứ 6 - như là một phối trí viên, làm hoàn thành các ý nghĩ và diễn tả tư tưởng của con người.

Chúng ta nhận thấy các yếu tố sinh lý và tâm lý của những trải nghiệm cùng nhau liên kết để tạo nên kinh nghiệm cá nhân của mỗi người. Giữa các sự kiện sinh lý và sự kiện tâm lý có ảnh hưởng hổ tương, ví dụ:
-Khi nhức đầu, chúng ta khó có thể suy nghĩ một cách rõ ràng.
-Khi sức khỏe bình thường thì suy nghĩ dễ dàng.
-Khi thân thể suy nhược, thì tinh thần dễ sinh buồn chán.
-Như vậy tình trạng sức khỏe ảnh hưởng đến sự quyết định của ý chí, ý thức. Trí huệ minh mẫn trong một tinh thần tráng kiện.

Vài ví dụ để soi sáng sự liên kết của sắc uẩn (sinh lý) và 4 uẩn thuộc tâm lý như sau:
        Ví dụ 1. Sáng nay chúng ta đi bộ băng qua một cánh rừng. Trong lúc đi bộ, đôi mắt của bạn (nhãn căn) tiếp xúc với một vật là đối tượng của mắt (sắc trần). Bạn chú ý vào vật đó, và thức uẩn của bạn tức thì nhận thức được vật ấy. Tưởng uẩn của bạn nhận ra vật ấy là một con rắn. Ngay khi đó, bạn liền có phản ứng với vật này (con rắn) bằng thọ uẩn của bạn: bạn cảm thấy sợ sệt. Cuối cùng bạn phản ứng chống lại vật ấy bằng hành uẩn của bạn: hoặc là với ý định chạy trốn con rắn, hoặc là lượm một cụt đá gần đó để liệng vào con rắn cho nó đi chỗ khác.

        Ví dụ 2.Âm thanh của tiếng nói của tôi (thanh trần) và 2 lỗ tai bạn (nhĩ căn) là 2 yếu tố của sắc uẩn. Thức uẩn của bạn nhận thức được giọng nói của tôi. Tưởng uẩn của bạn nhận biết được những lời nói mà tôi đang nói. Thọ uẩn của bạn thì phản hồi lại lời tôi nói với cảm giác có thể hài lòng hoặc có thể không hài lòng, hoặc không hài lòng cũng không không hài lòng. Rồi hành uẩn của bạn phản hồi lại bằng một phản ứng có điều kiện: hoặc lắng tai nghe tôi nói, hoặc la lớn biểu tôi im ngay.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có thể phân tích các trải nghiệm cá nhân của chúng ta qua bình diện của ngũ uẩn mà Đức Phật đã dạy.

 

III.- Nhận xét: Lời Phật dạy trong thuyết Ngũ Uẩn.

Đức Phật đã dạy cho chúng ta những điều gì qua việc học hỏi những đặc tính của ngũ uẩn?
1.Những yếu tố tạo nên sắc uẩn thì vô thường, luôn luôn biến đổi không ngừng. Thể xác chúng ta thì biến đổi: già, yếu, bịnh...
2.Những cảm giác của ta do thọ uẩn tạo ra thì cũng thay đổi không ngừng. Hôm nay chúng ta hài lòng với một hoàn cảnh đặc biệt này, nhưng ngày mai chúng ta có thể không còn hài lòng nữa.
3.Những nhận thức về một đối tượng trong một hoàn cảnh do tưởng uẩn đem đến thì cũng thay đổi vì hoàn cảnh luôn luôn đổi thay.
4. Tương tự như trên hành uẩn cũng thay đổi: hành động của chúng ta thì luôn thay đổi đối với một đối tượng cũng luôn thay đổi.
5. Cũng vậy, thức uẩn cũng thay đổi liên tục: Ý thức về một đối tượng cũng thay đổi theo thời gian và không gian.

Nói tóm lại, ngũ uẩn thì thay đổi liên tục, thì vô thường, do đó ngũ uẩn không có tự tánh tức là không có bản ngã, cho nên thường nói "ngũ uẩn giai không".
Do sự phân tích ở trên giúp ta đạt đến một tuệ giác: ý thức này không có bản ngã, không có gì giữ nguyên một tình trạng, một trạng thái mãi mãi. Nhờ vậy chúng ta sẽ có một thái độ vượt qua được những quấy động của tình cảm về hy vọng và sợ hải. Chúng ta hy vọng được hạnh phúc, và lo sợ sự đau khổ. Chúng ta hy vọng thành công, và chúng ta lo sợ thất bại. Chúng ta hy vọng được khá giả, và chúng ta lo sợ bị đói khổ. Chúng ta sống giữa nỗi hy vọng và nỗi lo sợ. Nếu chúng ta hiểu rằng hạnh phúc và khổ sở của cá nhân thì biến đổi không ngừng thì chúng ta sẽ vượt bỏ được ý tưởng về cái ngã - về cái sự trường tồn- tức là chúng ta sẽ vượt qua được lòng hy vọng và nỗi lo sợ. Như vậy chúng ta không còn phải ngụp lặng trong sự hy vọng và nỗi lo sợ, chúng ta sẽ đạt được sự thanh thản, bình an, đạt được an nhiên tự tại trước những thay đổi của cuộc đời.

IV.-Kết luận

Nói tóm lại, Đức Phật đã giảng sự kết hợp của các nhóm trong ngũ uẩn thì có tính cách tạm thời, tùy thuộc lẫn nhau, luôn luôn biến đổi. Chúng ta phải nhận thức rằng ngũ uẩn là vô thường, là không phải là "chính- chúng ta", là vô ngã. Khi ngộ được như thế thì chúng ta sẽ đi đến chỗ giác ngộ (bodhi, enlightement).

Toronto, 25 January 2017.
Nguyễn Vĩnh Thượng
Cựu  Giáo sư Triết học (1969-1975) tại các trường Petrus Ký, Hồ Ngọc Cẩn, Nguyễn An Ninh, Cần Đước và trường Sư Phạm Saigon.  

 

**Tài liệu tham khảo chính yếu:


-Bhikkhu Bodhi, edited & introduced, In the Buddha’s Words: An Anthology of Discourses from the Pali Canon, Foreword by The Dalai Lama, Boston: Wisdom Publications, 2005.
-Gombrich, Richard, Theravada Buddhism, London: Routledge, First published 1988, Reprinted 1991, 1994, 1995.
-Kalupahana, David J., Buddhist Philosophy: A Historical Analysis, Honolulu: University of Hawai Press, 1976.
-Kimura Taiken, Nguyên Thủy Phật giáo Tư Tưởng Luận; nguyên văn chữ Nhật, Hán dịch: Âu Dương Hãn Tồn, Việt dịch: Thích Quảng Độ, Saigon: ĐHVH, 1969. Chùa Khánh Anh ở Paris in lại, Phật học Viện Quốc tế ở California phát hành.
-Murti, T.R.V., The Central Philosophy of Buddhism, London: Unwin Paperbacks, First publishised in 1955, Reprinted in 1987.
-Narada, Mahathera, The Buddha and his Teachings, Kandy (Sri Lanka): Buddhist Publication Society, First enlarged edition: 1964, Second revised and enlarged edition: 1973.
-Nguyễn Vĩnh Thượng, Tâm Lý Học (sách giáo khoa lớp 12 ACD), Saigon: Hiện Đại phát hành, 1972.
-Tâm Diệu, Quan niệm giải thoát trong Phật giáo và Bà-la-môn giáo (bài biên khảo), Hoa Kỳ: Website Thư Viện Hoa Sen, 2011.
-Thích Chơn Thiện, Phật học Khái luận, California: Thanh Văn, 1992.
-Thích Quảng Liên, Sử cương Triết học Ấn độ, Saigon: tác giả x.b., bài cours cho sinh viên chứng chỉ Triết học Ấn độ, ĐHVK Saigon, 1965.
-Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn độ, Saigon: Lê Thanh thư xã, 1963.
-Thích Thiện Hoa, Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa XII (gồm 12 quyển), đã xuất bản ở Saigon từ 1955 – 1964. Tái bản: Phật Học Viện Quốc tế, Sepulveda, CA, USA, 1982.
-Williams, Paul, Mahayana Buddhism, London: Routledge, First published 1989, Reprinted 1991, 1993.

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/01/2021(Xem: 5039)
Tiến sĩ Frederick Lenz được biết đến với biệt danh là “Rama” (tiếng Phạn: रामा) và “Atmananda” (tiếng Phạn: आत्मानदा), ông bắt đầu công phu tu tập và hướng dẫn thiền định Phật giáo từ tuổi thập niên 20. Trong suốt cuộc đời, ông miệt mài truyền tải tinh hoa Phật giáo đến sinh viên phương Tây, bậc thầy về tâm linh, truyền bá Phật pháp tại Hoa Kỳ, bao gồm các giáo trình Phật giáo Tây Tạng, Thiền định, Advaita Vedanta (IAST Advaita Vedānta; Sanskrit अद्वैत वेदान्त; là một tiểu trường phái của triết lý Vedānta; và Huyền bí học (Mysticism), tác giả, nhà thiết kế phần mềm, nhà kinh doanh và sản xuất thu âm. . .
18/01/2021(Xem: 9812)
Paing Takhon, năm nay 24 tuổi hiện là người mẫu kiêm diễn viên, MC nổi tiếng ở Myanmar, nhưng anh là một Phật tử thuần thành, mới đây anh đã phát tâm tham dự khóa tu xuất gia ngắn hạn tại quê nhà. Anh chàng sở hữu thân hình cường tráng với chiều cao khủng 1m88, mái tóc dài lãng tử cùng loạt hình xăm chất ngầu nên được mệnh danh là "Aquaman châu Á". Paing Takhon gia nhập làng giải trí với tư cách người mẫu từ năm 2014. Ba năm sau anh còn lấn sân sang lĩnh vực điện ảnh và ca hát. Tất cả số tiền thu được từ album đầu tay anh đều quyên góp cho trẻ mồ côi. Ngoài ra, anh còn biết vẽ tranh sơn dầu, thích nấu ăn và yêu động vật.
17/01/2021(Xem: 5411)
Các học giả Phật giáo Ấn Độ, Giáo sư Bimalendra Kumar và Tiến sĩ Ujjwal Kumar đã phát hành một cuốn sách mới được biên tập có tựa đề “Sangitiyavamso: The Chronicle of Buddhist Councils on Dhamma & Vinaya” (Biên niên Sử các Hội đồng Phật giáo về Đạo pháp và Giới luật) của tác giả Sangitiyavamso. Các học biên tập viên miêu tả cuốn sách do Aditya Prakashan, New Delhi xuất bản, là một trong những biên niên sử toàn diện nhất của Thái Lan, kết hợp lịch sử Phật giáo với Lịch sử Vương quốc.
17/01/2021(Xem: 5288)
Trong một loạt các hội thảo hàng tuần, bắt đầu từ ngày 14 tháng 1 năm 2021, các học giả từ khắp nơi trên thế giới, sẽ thảo luận về các nghiên cứu So sánh Luật Hiến pháp và tư tưởng pháp lý của Phật giáo. Các buổi hội thảo dự kiến diễn ra trong tám tuần. Theo các nhà tổ chức, trong khi sự giao thoa giữa luật phát thế tục và các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Cơ Đốc giáo, trong những thập kỷ gần đây đã được nghiên cứu rất nhiều, cho đến nay thù Phật giáo vẫn bị loại khỏi cuộc đối thoại. Chuỗi hội thảo này nhằm giảm bớt khoảng cách đó, bao gồm nghiên cứu về các giao điểm lịch sử, cũng như đương đại của Phật giáo và các quy tắc pháp lý quốc gia.
15/01/2021(Xem: 4693)
Vào buổi sáng ngày 13 tháng 1 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tổ chức một buổi tiếp kiến ảo với ông Robert A. Destro, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, và Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng. Ông đã tham gia cùng các đồng nghiệp của mình từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông Robert A. Destro được bổ nhiệm làm Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng theo Đạo luật Chính sách Tây Tạng vào ngày 14 tháng 10 năm ngoái.
15/01/2021(Xem: 5011)
Tháng một năm 2021, dự kiến một nhóm gồm 10 nhà khoa học quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sẽ đến thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, điều tra nguồn gốc bệnh cúm Covid-19. WHO đang cố tìm ra nguồn gốc của virus gây bệnh cúm Covid-19 để ngăn chặn các đợt bùng phát trong tương lai. Dù virus xuất phát từ các chợ động vật hay các phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, các nhà khoa học đều nhất trí giả thuyết virus có từ động vật. Loài dơi. Tháng 1 năm ngoái, khi Vũ Hán xuất hiện những ca nhiễm đầu tiên, các nhà dịch tễ học đã tìm thấy chủng virus corona ở một chợ bán động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Những hình ảnh về sở thích ăn dơi sống, tiết canh dơi của người Vũ Hán lập tức được lan truyền khắp thế giới ngay khi dịch xuất hiện ở Vũ Hán. Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân của đại dịch là do virus corona lây lan từ động vật sang người.
15/01/2021(Xem: 5430)
Người xuất gia khi cạo râu cắt tóc (thế trừ tu phát, 剃除須 髮 [1]), từ bỏ cuộc sống gia đình, thệ nguyện theo con đường học đạo, giải thoát cho mình và cho chúng sinh. Người xuất gia nguyện không bị ràng buộc bởi phiền não của quá khứ và lo toan của tương tai. Bởi quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Bỏ mặc căn nhà, bỏ mặc tôi Bỏ mặc nơi đây, bỏ mặc người Bỏ trăm năm sau, ngàn năm nữa[2]
15/01/2021(Xem: 4999)
Niết Bàn là đích của người tu. Kinh văn Phật đề cập Niết Bàn, nơi chốn cực đẹp, ở đó không có phiền não, có bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy lớp hàng cây, đều bằng bốn báu vây quanh trọn khắp (thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo châu táp vi nhiễu-七 重 欄 楯。七 重 羅 網。七 重 行 樹。皆 是 四 寶 周 繞[1]; Niết Bàn, một trạng thái viễn ly điên đảo mộng tưởng(遠離顛倒夢想[2].)
13/01/2021(Xem: 5154)
Vào thời đại này, kể cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết dùng máy vi tính rất rành. Ngay trong sự sanh hoạt ngày thường, con người chỗ nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc đến máy vi tính, như là xe hơi, dụng cụ nhà bếp, máy móc thương nghiệp, cơ giới công nghiệp, dụng cụ điều trị, thậm chí trong đồ chơi của trẻ con cũng có trang trí máy vi tính lớn nhỏ phức tạp và đơn giản không giống nhau. Đến nỗi ở trong cơ quan điều khiển tinh vi, máy vi tính lại càng không thể có khuyết điểm, chẳng hạn như Phi Cơ, Tàu Thủy, Tín Hiệu Vô Tuyến Truyền Đạt..v..v.... đều an trí máy vi tính rất đầy đủ cao cấp. Chính nơi trang bị quân sự, máy vi tính lại càng trọng yếu hơn. Cho nên con người hiện nay sanh hoạt đều càng ngày càng ỷ lại nhiều vào máy vi tính thì nó càng quan trọng hơn.
13/01/2021(Xem: 5315)
Tăng đoàn của Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley đã thông báo rằng, Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman (Tông Thuần, Sōjun, 宗純), vị Trưởng lão Thiền sư đáng kính của Thiền phái Tào Động (Sōtō Zen, 曹洞宗), Phật giáo Nhật Bản, vị Giáo thọ sư nổi tiếng đã viên tịch vào hôm thứ Năm, ngày 7 tháng 1 năm 2021. Hưởng thượng thọ 91 tuổi. Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman, người cùng với Trưởng lão Thiền sư Shunryu Suzuki Roshi (pháp danh Shōgaku Shunryū, 祥 岳俊隆, 1901-1971), đồng sáng lập Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley, một trung tâm thực hành Thiền phái Tào Động, Phật giáo Nhật Bản tại Berkeley, California, Hoa Kỳ vào năm 1967.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]