Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11. Lời Huấn Từ Của Hòa Thượng Tôn Sư

07/01/201717:20(Xem: 7124)
11. Lời Huấn Từ Của Hòa Thượng Tôn Sư

LỜI HUẤN TỪ CỦA HÒA THƯỢNG TÔN SƯ

Trong buổi lễ chúc thọ Hòa thượng tám mươi tuổi,

ngày 23/01/2003 tại Thiền viện Thường Chiếu

Hôm nay gần như là lần chót chúng tôi nói chuyện tại Thiền viện Thường Chiếu, nên những gì đã ôm ấp từ trước tới giờ, tôi sẽ nói ra cho quí vị nghe và hiểu. Trước hết tôi nói về những thành quả trong đời tôi đã làm được và nguyên nhân của những thành quả đó để quí vị biết, học hỏi, hầu tiếp tục làm tròn phận sự của mình.

Phần lớn những thành quả tôi đạt được đều là những cái không ngờ. Như khi xưa đọc sử chư Tổ, tôi thấy ở Trung Hoa có nhiều vị ra đời giáo hóa đến cuối đời, tính ra có hàng vạn tín đồ. Khi bắt đầu đi vào con đường tu học, tôi nghĩ đời mình tới trăm tuổi giáo hóa nhiều lắm chỉ đến ngàn Phật tử, tức là một phần mười chư Tổ thôi, chớ không bao giờ có sức hướng dẫn một số đông như vậy. Nhưng đến nay số lượng Phật tử qui y, khoảng trên tám mươi bốn ngàn người. Đó là phần Phật tử tại gia, còn số lượng xuất gia khó tính quá. Quí vị biết tại sao không? Vì có vị cạo đầu ba bốn năm rồi để tóc lại, làm sao tính được! Như vậy mới thấy thành quả này không phải là việc ngẫu nhiên. Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ thu hoạch được kết quả tốt như vậy. Cho nên ngày nay được thế là chuyện không ngờ đối với tôi.

Kế nữa tôi cũng từng tuyên bố với Tăng NiPhật tử: Tôi tu hành chỉ lo hướng dẫn Tăng Ni biết rõ đường lối tu, chớ không đặt nặng chùa to Phật lớn, song bây giờ tôi lại có chùa to Phật lớn. Đây dường như là điều mâu thuẫn, nhưng sự thật không phải mâu thuẫn. Vì tôi lo cho Tăng Ni mà Tăng Ni ngày càng đông nên chùa phải to, chùa nhỏ làm sao dung hết? Chùa to thì Phật cũng phải to theo. Đó là điều tự nhiên, không gượng ép gì hết.

Hiện giờ ở trong nước số Thiền viện tiêu biểu, trực thuộc dưới sự hướng dẫn của chúng tôi như:

1. Thiền viện Chân Không.

2. Thiền viện Thường Chiếu.

3. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt.

4. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử.

5. Thiền viện Tuệ Quang.

6. Thiền viện Đạo Huệ.

7. Thiền viện Linh Chiếu.

8. Thiền viện Viên Chiếu.

9. Thiền viện Huệ Chiếu.

10. Thiền viện Phổ Chiếu.

11. Thiền viện Tịch Chiếu.

12. Thiền viện Liễu Đức.

13. Thiền viện Hương Hải.

14. Thiền viện Tuệ Thông.

15. Thiền tự Phúc Trường.

Tại nước ngoài, tiêu biểu như:

1. Thiền viện Đạo Viên tại Canada.

2. Thiền viện Đại Đăng tại Mỹ.

3. Thiền viện Bồ-đề tại Mỹ.

4. Thiền viện Quang Chiếu tại Mỹ.

5. Thiền viện Diệu Nhân tại Mỹ.

6. Thiền tự Vô Ưu tại Mỹ.

7. Thiền tự Hiện Quang tại Úc.

8. Thiền tự Pháp Loa tại Úc.

9. Thiền tự Hỉ Xả tại Úc.

10. Thiền tự Tiêu Dao tại Úc.

Đó là chỗ tôi không bao giờ nghĩ, không bao giờ tưởng, nay nó đến một cách đầy đủ, đột ngột, nên tôi nói bất ngờ. Tôi sẽ kể tiếp đời tu của tôi có những bất ngờ như sau:

Bất ngờ thứ nhất là ngày xưa Thầy tôi, Sư ông tôi và các Hòa thượng dạy tôi đều tu Tịnh độ, nhưng tôi lại tha thiết tu ThiềnThời xưa của tôi không có một vị Thiền sư nào cả, chỉ có những người dạy Thiền mang tánh cách ngoại đạo thôi. Như vậy tâm nguyện tha thiết của tôi không có chỗ tựa, chỉ một người bạn đồng hành duy nhất là thầy Nhất Hạnh. Lúc còn ở Ấn Quang, thầy cũng tha thiết tu Thiền như tôi. Vì vậy hai chúng tôi có chỗ thông cảm về đường lối tu Thiền. Tuy đồng một quan niệm tu Thiền, nhưng hai người có hai lối tu khác nhau.

Sau khi dạy ở Phật học viện Huệ Nghiêm rồi, tôi thấy mình phần nào đã trả được nợ cơm áo của thí chủ và công ơn Thầy Tổ, nên xin ra Vũng Tàu cất thất tu Thiền. Tuy ham tu Thiền nhưng tôi chưa biết phải tu theo Thiền nào, đó là lỗi không gặp được thầy hướng dẫn. Tôi chỉ lấy kinh làm nền tảng tu. Trước hết nghiên cứu kinh A-hàm, tôi thấy pháp tu Thiền trong A-hàm là pháp Tứ niệm xứ, theo đó thì quán hơi thở. Sau này ngài Trí Khảiđại sư viết thành cuốn Lục Diệu Pháp Môn, tôi ứng dụng tu theo hai phần.

Phần thứ nhất là Tứ Niệm Xứứng dụng chưa có kết quả thì tôi đã bị lúng túng, do đó tôi chuyển qua Lục Diệu Pháp Môn. Buổi đầu thấy tiến khá tốt, nhưng đi sâu vào tôi cũng bị dội. Thế là xoay qua Thiền tông, tôi dịch một tác phẩm dạy tu thiền của Thiền sư Hư Vân, trong đó ứng dụng theo lối tu Thiền thoại đầu. Song tôi bị ngăn trở khoảng giữa đường, tu cũng không tiến. Đau khổ vô cùng, tôi không biết hướng nào đi, cứ dò dẫm chỗ này, dò dẫm chỗ kia, rốt cuộc bị ngăn trở không tiến được. Lễ Phật tôi khóc.

Nhưng điều tôi không ngờ được là do túc duyên đời trước. Một đêm chân thành lễ Phật sám hối, sau đó đi nghỉ, tôi mộng thấy mình đi vào một ngôi chùa xưa giống như chùa Tàu. Tôi thấy hai vị Tổ ngồi ở nhà Tổ. Nhìn qua tôi biết liền, đây là Tổ Tăng Xán, đây là Tổ Huệ Khả, thấy rõ hình ảnh ấy tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Mừng quá, tôi chạy kêu thầy Trụ trì ở đâu sao không đem trà nước mời gì cả, để hai vị Tổ ngồi buồn. Mải lo chạy kêu thầy Trụ trì, khi trở ra thì hai vị đi mất ra ngã sau. Tôi giật mình thức dậy, nghĩ rằng mình đã có duyên với Tổ nên ngày nay mới thấy. Đã có duyên như vậy, tại sao hơn một ngàn năm qua mình còn lao đaolận đậntu hành không đến đâu hết. Tôi buồn, thấy tủi thân vì duyên của mình không thành tựu gì cả.

Một đêm khác cũng trong thời gian nhập thất, tôi nằm mơ thấy Tổ Huệ Khả. Ngài đứng trên cao đọc một bài thơ, nghe qua tôi không nhớ hết, chỉ nhớ câu cuối cùng Ngài nói: “Không bình, không trắc”. Giật mình thức dậy, tôi lấy làm lạ quá, tại sao thơ mà không bình không trắc, nếu thơ thì phải có luật bình trắc chứ? Tôi cứ nghiền ngẫm tại sao không bình không trắc? Đến giờ ngồi thiền khuya, bỗng dưng tôi sáng được lý Bát-nhã, từ chỗ không bình không trắc đó, tôi nhớ tới câu “sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Sắc-Không không rời nhau, Sắc-Không không hai, bất thần ngay nơi đó tôi hiểu được lý Sắc-Không. Thế là suốt ba ngày, đi tới đi lui một mình tôi cười hoài, rất vui mà không biết vui ra sao nữa? Sau tôi đọc trong tạng, tới bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự, đọc tới đâu thấy sáng tỏ tới đó. Đến đây, rõ ràng tôi biết mình có duyên tu Thiền.

Ngày xưa, vì thấy việc này hơi thần thoại, do đó tôi không dám kể với quí vị, chỉ đơn độcthực hành thôi. Khi thực hành thấy kết quả tốt, tôi đem hết sách Thiền ra đọc và dịch để Tăng NiPhật tử có tài liệu tham khảo. Từ đó tôi biết rõ đường lối tu Thiền. Như vậy tôi tu thiền không có thầy, chỉ nhờ duyên đánh thức qua hình ảnh hồi xưa, đó là một lý do. Cho nên những Phật sự ngày nay tôi làm được, không phải là chuyện ngẫu nhiên mà do túc duyên từ thuở nào. Khi đọc kinh Pháp Hoa, tôi càng thấy rõ hơn, không một đức Phậtnào thành Phật chỉ trong một đờiMột đời thành Phật là đời chót, chớ không phải tu một đời.

Chúng ta tu từ những đời trước, đã tạo được duyên lành nên qua đời này tuy không gặp thiện tri thức chỉ dạy, song nhân một cơ duyên nào đó mình cũng thức tỉnh được. Trong đời này số Phật tử tôi giáo hóa đông đảo, đương nhiên đã gieo duyên nhiều đời lắm rồi, chớ không phải một đờiHiểu rõ như thế tôi biết chắc không phải một đời này mình đủ tàiđủ đức giáo hóa như vậy. Từ những đời trước chúng ta đã gieo duyên với nhau rồi, nên đời nay gặp lại đông đảo thế này. Lý luân hồi nhân quả của đạo Phật không bao giờ sai chạy. Chúng ta đã gieo nhân thế nào thì sẽ gặt quả thế ấy, không bao giờ mất.

Cho nên trên đường tu chúng ta đừng nghĩ rằng chỉ một đời này mình tu thôi. Những người xuất gia thọ giới tu hành được kha khá đều có duyên từ nhiều đời trước, nên đời này tiếp tục tu nữa. Vì vậy làm được việc gì, tất cả công đức chúng ta tạo ra, gốc đều từ duyên lành đời trước chớ không phải chỉ trong đời này. Nghĩ như vậy rồi chúng ta không có lý do gì để tự cao, ngạo mạn mình là người tài giỏi. Nên biết rằng đây là chúng ta tiếp tục con đường mình đã đi trong nhiều đời, và còn nhiều đời nữa phải tiếp tục, chớ không phải ngang đây là dứt. Đó là lý do thứ nhất mà đời tu này của tôi có được những việc bất ngờ.

Lý do thứ hai tôi muốn nhắc cho Tăng NiPhật tử biết việc làm đạt được kết quả tốt là do lòng chân thành của chúng ta. Tôi lo cho Phật pháp, lo cho Tăng Ni, chỉ một bề làm sao cho Tăng Ni tu được, học được, làm sao cho tất cả Phật tử đến với mình phát tâm Bồ-đề ngày càng rộng lớn, chớ không bao giờ nghĩ lợi dụng Phật tử để làm việc riêng cho mình. Muốn cho Phật tử đến chùa mỗi ngày đều được lợi ích, được thấm nhuần chánh pháp; muốn cho Tăng Ni mỗi ngày tu đều, đi sâu trong đạo đức, thấy suốt được lời dạy của Phật Tổcả đời tôi chỉ lo cho Tăng NiPhật tử tu. Có lẽ vì tâm đó mà Phật tử ủng hộ, giúp đỡ tôi không tiếc côngtiếc của. Tôi chưa kêu gọi quí vị đã hưởng ứng, tôi chưa khuyên bảo tiếp giúp, quí vị đã sẵn sàng gánh vác những công tác tôi muốn làm hay đang làm. Đó là điều chư Tăng, chư Ni nên ghi nhớ muốn làm Phật sự được, chúng tađừng bao giờ nghĩ đến danh đến lợi, mong mọi người quí kính mình. Chúng ta làm là vì người sau, vì muốn cho chánh pháp ngày càng sáng tỏ, bủa khắp các nơi. Không phải nghĩ tới bản thân mình hoặc nghĩ tới thân nhân mình mà làm Phật sựLòng chân thật ấy là lý do thứ hai mà tôi có được những sự việc bất ngờ.

Điều thứ ba tôi muốn nhắc nhở cho Tăng Ni nhớ thật kỹ, chúng ta làm Phật sự phải đúng nghĩa Phật sự, vì muốn cho tất cả chúng sanh hiểu Phật pháp, chớ không nên làm Phật sự mà trá hình bởi cái này, cái nọ. Vì muốn chúng sanh thức tỉnhgiác ngộ được lẽ thật nên chúng ta làm Phật sự, chớ không vì cầu cạnh điều gì, không vì lời khen, không vì những quyền lợi nhỏ lớn nào đó mà làm. Chỉ một bề lo cho Tăng NiPhật tử làm sao thức tỉnh, làm sao giác ngộ để đánh tan mê lầm muôn đời của mình, lần lần tiến lên, chớ không nên mong một điều gì khác. Vì vậy tôi mong toàn thể chư Tăng, chư Ni, quí vị đã hi sinh cả cuộc đời, bỏ tất cả thân quyến để vào đạo tu hành, phải làm sao đời tu của mình thật xứng đáng, là một con người giác ngộ thật sự để dìu dắt, chỉ dạy những người sau. Chúng ta là những người mang lại tình thương cho nhân loại bằng cách đánh thứchọ, đừng để chúng sanh mê lầm gây tạo tội lỗi khổ đau. Do đó không nên vì một lý donào mà Tăng Ni xao lãng việc tu hành của mình. Đó là điều hết sức thiết yếu.

Đời này tôi làm Phật sự được kết quả tốt đẹp, nhiều người tán thán không phải do tài của tôi trong một đời, mà là cộng lại quá khứ chúng tôi đã gieo trồng duyên lành với Phật pháp nhiều đời. Đời này tiếp tục nên việc làm dễ dàng có kết quả tốt đẹpđồng thời cũng do tâm chân thành, một lòng vì chánh pháp, chớ không vì lý do nào khác. Trên bước đường tu, dù chúng ta có giác ngộ cũng chỉ giác ngộ phần nào thôi, chưa phải giác ngộhoàn toànVí như người thấy núi, đứng dưới chân núi vẫn chưa gọi là đã lên đỉnh núi. Quá trình leo lên tới đỉnh còn trải qua bao nhiêu công phu nữa. Chúng ta đừng lầm khi thấy cái gì hay hoặc tu được kết quả tốt rồi khoe mình thế này, thế nọ. Đó là tổn phước, tổn đức. Phải thấy đường đi của mình còn dài, dù hiện giờ chúng ta biết được đường đi, nhưng chỉ là người đứng ở đầu đường, chưa phải đến được cuối đường. Biết được như vậy, lúc nào cũng là lúc chúng ta phải tu, không nên nói rằng mình làm được nhiều việc rồi, bây giờ thảnh thơi ăn chơi tự tại. Đó là điều không tốt.

Thật tình chúng ta tiến được năm mười bước thì phải thấy rằng đây là những chặng đầu, chưa phải là chặng cuối. Cho nên những bước sau càng mạnh mẽ cố gắng hơn nữa, đừng ngỡ rằng chúng ta đã tiến một hai bước rồi hài lòng, tự mãn, chết chìm trong đó, không tốt. Bởi vậy sau bao nhiêu năm lo dạy Tăng NiPhật tử tôi cũng cố gắng tu nhưng sự tu bị giới hạn. Như hôm nay giảng, buổi tối ngồi thiền nhớ câu nào hay hoặc đề tài nào đúng mình lôi ra để mai giảng, bị những thứ ấy lôi đi nhưng vẫn phải chịu thôi. Ngày nào cũng thếtự nhiên công phu của mình hao hụt rất nhiều, vì vậy việc tu thiệt thòi. Do đó tôi muốn có được một thời gian trọn vẹn để yên ổn tu hành.

Tôi nhớ lại nhiều thầy đồng tuổi với mình đã từ giã cõi đời lâu rồi. Gần nhất là thầy Tịnh Viên ở chùa Linh Sơn Vũng Tàu. Kế đó là thầy Huỳnh Kim ở Sài Gòn đã đi mất hai ba năm nay. Thầy Thiền Định học chung một lớp với tôi cũng đã đi được hai ba năm và nhiều thầy nữa đã đi. Không những quí thầy đồng tuổi với tôi, mà các thầy nhỏ tuổi hơn tôi như thầy Thiện Châu cũng đi, thầy Huyền Vi thì đang bệnh. Tất cả quí thầy kẻ đi trước người đi sau, đi lần mòn, riêng tôi còn sót lại. Đó có phải là điều hạnh phúc không? Chính vì còn sót lại nên tôi mới lo nhiều. Ngày nay mình còn ở đây phải làm gì chứ, không thể chần chừ được. Sanh tử đã chực sẵn, chỉ cần một cái sơ sẩy là mất mạngliền, không thể chần chừ được nữa. Bởi vậy tôi phải từ giã Tăng Ni để ngồi yên nỗ lực tu hành. Ngày nào còn sáng, còn tỉnh, còn mạnh thì ngày đó tôi làm việc cho mình, để khi hết cuộc đời con đường đi của tôi được gần hơn một chút. Hay nói một cách cụ thể hơn, ngày ra đi tôi được tỉnh táosáng suốt để Tăng NiPhật tử tăng trưởng lòng tinNếu không như thế thì tôi chịu trách nhiệm lãnh đạo Tăng NiPhật tử tu hành mà không để lại được niềm tin nơi quí vị thì thật đáng buồn!

Các Thiền sư khi ra đi rất là thanh thoát, trước khi đi các ngài còn làm những bài kệkhuyên nhắc đệ tử. Bây giờ nếu tôi ra đi một cách mê muội tối tăm thì chắc rằng lòng tincủa Phật tử phải suy giảm. Do đó tôi tu vừa để lợi ích cho bản thân, vừa để làm gương cho những người sau noi theo. Vì lý do đó nên tôi cố gắng tu chớ không phải tu để được ai khen hết. Bởi vì tu là việc của mình, lo cho mình, làm cho mình. Chính mình làm được cho mình mới có thể khuyên nhắc mọi người cùng làm theo. Bản thân mình làm không được mà khuyên người ta làm thì làm cái gì? Mình đứng một chỗ mà xúi người ta đi thì ai đi được? Điều đó không thiết thực.

Tôi muốn trên đường tu của mình, từ khi mới bắt đầu cho đến phút cuối cùng, lúc nào cũng nỗ lực, cũng tinh tấn đi cho hết con đường. Dù biết rằng đường rất dài, tới khúc nào đó ta cũng kiệt lực, nhưng phút kiệt lực chúng ta vẫn là người đang đi, chớ không nên ngã quị hay lăn xuống giếng. Được như vậy mới xứng đáng, mới không hổ thẹnmình là người có trách nhiệm lãnh đạo Tăng NiPhật tử tu hành. Do vậy lúc nào tôi cũng tha thiết, cũng muốn làm cho xong phần mình, rồi sau mới kêu gọi anh em cùng làm.Trọng trách này rất là nặng nề.

Hôm nay nhân ngày quí vị tổ chức mừng thượng thọ của tôi, đây là điều mừng hay buồn? Nếu nói theo tôi thì mừng, vì tôi còn sống để lo tu. Thêm được ngày nào là quí ngày ấy, những năm về trước tôi quá nhiều việc nên chạy ra ngoài nhiều, bây giờ ngày nào cũng là ngày của tôi. Sống thêm một tháng là được một tháng, một năm là tốt một năm, được năm bảy năm thì càng tốt hơntùy duyên. Biết rằng cái chết lúc nào cũng chực sẵn, chúng ta không ai tránh khỏi, nhưng đi muộn thì mình có thời gian để tu, đó là duyên phúc lành. Vì vậy tuổi cao tôi không sợ, chỉ sợ ngày ra đi mê mờ không biết gì. Thế nên những ai chân thành tu đều phải thấy, phải biết lẽ này để chúng ta dồn sức tu hành. Tuổi càng lớn sự tu càng nhặt hơn, càng nỗ lực hơn. Không thể nói thầy già rồi để thầy chơi, còn mấy đứa nhỏ ráng tu. Mình là người đi trước thì lúc nào cũng phải đi và đi rất mạnh mẽ cho người đi sau nương theo. Đó là trách nhiệm tôi tự thấy, tự gánh vác, tự đặt cho mình, chớ không ai bắt buộc tôi cả.

Những năm còn lại là những năm rất đủ cho tôi làm bổn phận của mình, không phải là những năm thừa để nhàn hạ. Đó là điều tôi muốn nói cho toàn thể Tăng Ni biết, các đệ tửsau tôi cũng theo gương đó dành dụm những ngày chót của mình, nỗ lực tu hành thật nhiều, đừng để phí tổn thời gian vô íchCuộc đời tu của chúng ta có mấy chục năm chớ không dài, nếu để phí tổn như vậy thì thật là thiệt thòi lớn!

Tôi đem bản thân mình nhắc nhở cho tất cả chư Tăng Ni, Phật tử hiểu rõ để tu hành, chớ không nói những chuyện gì xa. Mong quí vị nhìn theo tôi, cố gắng tu để đời tu của mình xứng đáng, không hổ thẹn là một người xuất gia tu hạnh giải thoát, mà cuối cùng mình đi trong con đường mê. Cầu mong tất cả Tăng NiPhật tử đều là những người tỉnh giác, đi đúng đường cho tới ngày nào đạt được kết quả cuối đường là giác ngộ giải thoát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2015(Xem: 9071)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8072)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12051)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 30976)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 12907)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12182)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7188)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
21/06/2015(Xem: 9488)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
20/06/2015(Xem: 14530)
Bài thơ đầu anh viết tặng em Là bài thơ anh kể về đôi dép Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết Những vật tầm thường cũng biến thành thơ
18/06/2015(Xem: 6436)
Hãy Lắng Tâm Cảm Nhận Này bạn, bạn đi đâu đấy, đứng lại đây với tôi một phút, chỉ một phút thôi!!! Bạn hãy cùng tôi quan sát những người đi đường kia xem. Bạn có thấy là họ đang hối hả lao về phía trước không? Đang ở trong nhà thì họ lao ra đường, đang ở đường thì họ vội vã phóng về nhà. Nhìn họ chẳng có chút bình an nào cả, khuôn mặt ai cũng căng như dây đàn. Họ vội vã đi, vội vã làm, vội vã nói, vội vã ăn, ngay cả đi chơi cũng vội vã. Họ đã đánh mất đi khả năng sống thư thái, an nhàn. Họ không làm chủ được cuộc đời của mình, họ bị cuộc đời rượt đuổi. Nếu họ không biết dừng lại thì họ sẽ phải hối hả như vậy suốt cuộc đời. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, làm sao mà người ta có thể bình an hạnh phúc khi trong tâm lúc nào cũng đầy ắp những toan tính, lo âu và đôi chân thì cứ lao về phía trước (mà không biết lao về đâu)? Và bạn biết không, nếu có ai đó đứng bên kia đường nhìn về phía bạn thì thấy chính bạn cũng nằm trong cái đám đông hỗn l
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]