Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Tạng Pháp Số phiên bản mới nhất và đầy đủ nhất

03/01/201720:51(Xem: 9632)
Tam Tạng Pháp Số phiên bản mới nhất và đầy đủ nhất

Tam Tạng Pháp Số phiên bản mới nhất và đầy đủ nhất

 tam-tang-phap-so

Trong quá trình học tập và nghiên cứu Phật điển Hán tạng, chúng tôi nhận thấy việc ghi nhớ các từ ngữ Phật học là điều không dễ, bởi số lượng từ ngữ Phật học rất nhiều, Phật Quang Đại Từ Điển tổng cộng có 22608 mục từ. Nếu đi vào cụ thể từng tông phái thì số lượng mục từ đó vẫn còn chưa đủ, chỉ xét riêng tông Duy Thức đã có hơn 15.000 từ ngữ; Thiền tông có hơn 8.000 mục từ…nếu không tuần tự đi từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu người học sẽ ngập mình trong khối từ ngữ Phật học. Thêm vào đó, trong cùng một từ ngữ như “tâm”, “tính”, “thể”, “tướng”, “nhất tâm”…chúng đều có các nét nghĩa khác nhau theo từng tông phái, đây là trở ngại lớn cho người nghiên cứu Phật học qua Phật điển Hán tạng. Để góp phần vào việc giảm bớt rào cản ngôn ngữ cho người học Phật, chúng tôi chọn và soạn dịch bộ Tam Tạng Pháp Số bởi ba lí do:

1. Đây là bộ sách dạng từ điển có tính Phật học thuần túy, bởi ngoài từ ngữ chỉ các khái niệm về Phật học ra, sách này không thu vào các từ chỉ liên quan đến Phật giáo như tên chùa, tên danh tăng, tên tông phái...

2. Về số lượng, đây là sách có khối lượng từ ngữ Phật học vừa phải nhưng chúng đều có tần suất sử dụng rất cao kinh văn Phật giáo.

3. Các mục từ đều được ghi rõ nguồn gốc xuất xứ ở các kinh, luận trong đại tạng. Với trường hợp các từ nguyên văn giải thích rườm rà khó hiểu, tác giả giải thích một cách chiết trung, súc tích giúp người đọc dễ hiểu, dễ nhớ. Điều này có lợi trong việc giúp người đọc dễ dàng tìm hiểu nghĩa sâu hơn trong nguyên bản, đồng thời đây là dụng ý của soạn giả chỉ ra lỗi của người giới nghiên cứu Phật học “thời đó” là “nói thiếu dẫn chứng”như trong lời nói đầu của học giả Đinh Phúc Bảo. Trong quá trình biên dịch sách này, chúng tôi tránh hai thái cực là lạm dụng âm Hán – ViệtViệt hóa từ ngữ Phật học một cách thái quá. (chỉ xét riêng trong cách chuyển dịch từ ngữ Phật học tiếng Hán thành từ tương đương trong tiếng Việt)

 

Với trường hợp thứ nhất tức trường hợp lạm dụng âm Hán – Việt. Theo quan điểm này, sẽ chỉ phiên thành âm Hán – Việt đối với tất cả các từ ngữ Phật học trong tiếng Hán. Ví dụ: 一心約教有異sẽ được dịch ra tiếng Việt bằng cách phiên âm từ này là Nhất tâm ước giáo hữu dị hay 水喻真心有十義 sẽ dịch thành tiếng Việt bằng cách phiên âm thành Thủy dụ chân tâm hữu thập nghĩavà mặc nhiên xem đây là đơn vị từ vựng Phật học tiếng Việt. Thật ra đây không phải là từ Hán Việt mà mới chỉ là cách đọc Hán - Việt.Ưu điểm của việc dịch bằng cách dùng trực tiếp cách đọc Hán - Việt là ngắn gọn. Nhưng ưu điểm này không thể bù cho các khuyết điểm: 1. Những mục từ được thu nhập trong từ điển chỉ xuất hiện ở từ điển chứ không xuất hiện trong văn bản dịch. Vì vậy, tuy là từ điển Phật học tiếng Việt nhưng phần lớn chỉ được tra cứu trong trường hợp đọc trực tiếp bằng văn bản tiếng Hán, điều này đã làm giảm đi rất nhiều chức năng của từ điển. 2. Tuyệt đại đa số từ, cụm từ đó đều mang cấu trúc từ pháp tiếng Hán, không phù hợp với cách cấu tạo từ của tiếng Việt, do vậy chúng không thể liên kết thành câu trong tiếng Việt.

 

Trường hợp thứ hai là Việt hóa từ ngữ một cách thái quá.Chúng tôi dùng chữ thái quá vì quan điểm này có xu hướng không dùng những từ Hán Việt vốn đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt. Ví dụ các từ đã thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt như Tam bảo, Chính đạo sẽ được dịch làbangôi báu trong đời; con đường chân chính…cách dịch này có ưu điểm dễ hiểu, dễ tiếp thu, có cấu trúc từ, cụm từ đúng với từ pháp tiếng Việt, tuy nhiên vẫn có một số hạn chế: 1. Thiếu tính súc tích, vắn gọn; thiếu tính nhất quán, tính đơn nghĩa và nhất là thiếu tính tôn giáo (khi nói Tam bảo, bát chính đạo thì ai cũng biết đó là từ ngữ Phật học, dù không biết nội dung cụ thể là gì, đấy là tính tôn giáo)của thuật ngữ. 2. Việt hóa quá mức những từ vốn đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt trong khi chưa có khái niệm cụ thể về ý nghĩa của “từ thuần Việt”, do vậy phải dịch bằng cách giải thích rườm rà, nhất là cách dịch này sẽ làm nghèo vốn từ vựng tiếng Việt.

 

Để tránh rơi vào hai trường hợp vừa nêu, chúng tôi tiến hành định lượng khảo sát các từ ngữ Phật học hiện đã trở thành lớp từ phổ thông, xem chúng đã chuyển dịch Hán sang Việt như thế nào bằng cách phân loại theo tiêu chí âm tiết, cụ thể là từ một âm tiết, hai âm tiết và ba âm tiết trở lên như sau.

 

Từ 1 âm tiết

Từ 1 âm tiết trong tiếng Hán dịch thành 1 âm tiết tiếng Việt chiếm hơn 99,9 %. Ví dụ các từ: Phật – Phật, Pháp – Pháp; Tăng – Tăng; Giới – Giới; Định – Định; Tuệ - Tuệ; Tướng – Tướng; Thể - Thể; Dụng – Dụng; Ý – Ý; Sắc – Sắc....Trong số đó, có cực hiếm những từ đơn âm tiết trong nguôn ngữ nguồn được dịch thành từ hai âm tiết trong ngôn ngữ đích. Từ “Tăng” có lúc tự dịch bằng cách thêm từ thành “chúng tăng” hoặc chữ “trần” thành “trần gian”. Từ điểm này cho thấy, đối với từ ngữ Phật học chỉ có 1 âm tiết thì khi dịch thành tiếng Việt sẽ tương ứng là 1 âm tiết. Tức cách đọc Hán – Việt trùng lên nghĩa tương ứng của từ đó trong tiếng Việt.

 

Từ có 2 âm tiết

Từ có 2 âm tiết trong tiếng Hán có nhiều cách dịch trong tiếng Việt, tức không còn tỉ lệ đối ứng 2 âm tiết Hán = 2 âm tiết Việt nữa. Ví dụ từ 四谛 có nhiều cách dịch như Tứ đế; Bốn chân lí; Bốn sự thật. Tuy nhiên, cách dịch có tỉ lệ đối ứng 2 âm tiết Hán = 2 âm tiết Việt chiếm tỉ lệ cao hơn nhiều, nguyên nhân là vìchúng không có từ tương đương trong tiếng Việt, do vậyxem cách đọc Hán – Việt chính là nghĩa tương ứng của từ đó trong tiếng Việt. Ví dụ các từ: duyên khởi, nhân duyên, nhân quả, quy y, vô thường, thiền định; bát nhã...tỉ lệ dịch theo phương pháp này chiếm khoảng hơn 97% trong tổng số từ ngữ Phật học có 2 âm tiết.

 

Từ có 3 âm tiết trở lên

Trường hợp 3 âm tiết trở lên khá phức tạp vì chúng có thể là từ, có thể là cụm từ. Một số từ có cấu trúc ngược (ví dụ theo tiếng Việt là Luận về Tư bản nhưng đã quen dùng Tư bản luận) nhưng dùng quen và rộng rãi trong tiếng Việt thì chúng tôi giữ lại, cách giữ lại này chúng tôi dựa vào lí luận phiên dịch của Huyền Tráng, tức thuộc “thuận cổ bất phiên” trong “ngũ chủng bất phiên”, các trường hợp còn lại đều được chuyển dịch cho phù hợp với cấu trúc từ tiếng Việt.

Những từ có nhiều biến thể âm đọc trong tiếng Việt, chúng tôi sẽ chọn cách đọc đúng với âm Hán - Việt của từ đó. Ví dụ từ 比丘có bốn biến thể âm đọc theo từng vùng: miền Bắc đọc Tỉ khưu hoặc Tỉ khiêu; miền Trung, miền Nam đọc Tỉ kheo, Tì kheo, Tì khưu, Tỉ khưu. Trường hợp này chúng tôi sẽ đọc đúng âm Hán Việt của từ đó là Tỉ khâu. (nguyên nhân đọc chệnh này không phải vì ảnh hưởng cách phát âm địa phương mà do kiêng tên của Khổng Tử)Đối với các từ dịch âm gốc Phạn sang Hoa, trong quá trình dịch thành tiếng Việt, chúng tôi chỉ dịch bằng cách phiên thành âm Hán Việt.Thông thường những từ ngữ phỏng âm theo tiếng nước ngoài qua tiếng Hán làm trung gian đều dùng dấu gạch nối giữa các tiếng. Ví dụ: Thích-ca Mâu-ni, Bồ-tát, La-hán…song trên thực tế sử dụng (khảo sát trong Đại từ điển tiếng Việt hiện đại vàtrong các tuyển tập ca dao tục ngữ) đều không có dấu gạch nối. Theo chúng tôi, có ba lí do không nên dùng dấu gạch nối giữa các tiếng trong từ dịch âm gốc Hán: 1. Dấu gạch nối chỉ sử dụng cho các từ phiên âm từ tiếng Anh, Pháp chứ không thích hợp cho các từ gốc Hán, vì dùng gạch nối giữa các từ dịch âm sẽ tạo thành ngăn cách khiến các từ đó không chuyển thành từ Hán Việt, trong khi đó từ phiên âm Hán – Việt “luôn có tiềm năng trở thành từ Hán Việt một khi có điều kiện”. 2. Thiếu mĩ quan và không tiết kiệm. 3. Nếu chiếu theo quy tắc gạch nối này thì rất nhiều từ Hán - Việt đã trở thành lớp từ phổ thông trong tiếng Việt cũng phải có dấu gạch nối, ví dụ: La sát, Diêm vương, Sám hối...Nếu chúng ta dùng dấu gạch nối giữa các tiếng đối với các từ dịch âm gốc Hán sẽ làm người Việt có cảm giác xa lạ với những từ vốn đã thành lớp từ phổ thông. Ngoài ra, danh hiệu Phật, Bồ tát, tên quả vị tu chứng, nhân danh, địa danh, tên kinh luận chúng tôi đều dùng chữ in hoa đối với tất cả các tiếng.

 

Xét về chức năng, đây là sách công cụ mang hình thức từ điển song ngữ Phật học Hán – Việt. Tôn chỉ, linh hồn của từ điển song ngữ ở điểm “cung cấp từ tương đương ở ngôn ngữ đích sao cho từ đó có nội dung ý nghĩa tương đồng với ngôn ngữ nguồn” (Theo Ladislar Zgusta trong cuốn Manual of Lexieography, trang 404 – 1983), do vậy, trong cuốn sách này chúng tôi cố gắng cung cấp các đơn vị từ tương đương với mục từ trong ngôn ngữ nguồn giúp người tra cứu có những đơn vị từ ngữ để tham khảo biểu đạt trong quá trình dịch thuật. Ngoài ra, trong quá trình sử dụng thực tế, thuật ngữ nói chung và thuật ngữ Phật học nói riêng sẽ có những “biến thể” nhất định để phù hợp với văn phong, với văn cảnh, với đối tượng tiếp thu, đấy chính là lí do chúng tôi đã cung cấp nhiều từ tương đương trong ngôn ngữ đích cho cùng một từ trong ngôn ngữ nguồn vậy.

 

Do điều kiện lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ…giữa hai nước Việt – Trung khiến Phật giáo Việt Nam có nhân duyên khắn khít không thể phân tách khỏi Phật giáo Trung Quốc và kho tàng Phật điển Hán tạng, đặc biệt là về mặt từ ngữ Phật học. Qua việc khảo sát từ ngữ Phật học hiện đã trở thành lớp từ thường dân trong các từ điển tiếng Việt hiện đại chúng tôi nhận thấy việc dịch kinh Phật đã, đang và sẽ làm phong phú hơn cho kho từ vựng tiếng Việt.

 

Những năm gần đây có nhiều nhiều tổ chức, nhiều trung tâm, nhiều nhà nghiên cứu Phật học đã nỗ lực cống hiến sức mình qua việc lần lượt giới thiệu các dịch phẩm kinh, luật, luận đến với người đọc, trong đó, việc dịch và biên soạn từ điển cũng có những bước tiến rõ về số lượng lẫn chất lượng. Đây là điều mà mỗi người con Phật đều lấy làm vui mừng. Để góp chút sức mình vào việc phiên dịch Phật điển Hán – Việt, chúng tôi cảm thấy hân hạnh và vui mừng khi được giới thiệu sách này đến quý độc giả. Mặc dù cố gắng nhiều nhưng chắc chắn vẫn không khỏi thiếu sót, kính mong quý độc giả hoan chỉ chỉ giáo để chúng tôi hoàn thiện trong những lần tái bản.

Xin cảm ơn Công ty CP sách Thái Hà đã phát hành Tam Tạng Pháp Số, tác phẩm rất có giá trị và cần thiết này.

 

Thích Quang Định

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6992)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8337)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16577)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8547)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6439)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5608)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7201)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7221)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7820)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6099)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]