Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Phật Tử những điều không nên làm khi tới chùa

28/12/201621:14(Xem: 12213)
Người Phật Tử những điều không nên làm khi tới chùa

Người Phật Tử
những điều không nên làm khi tới chùa

Quảng Thành
be-di-le-chua
Chùa chiền là chốn Thiền môn thanh tịnh, là ngôi nhà giáo pháp che chở cũng như nuôi lớn tình thương, khơi nguồn trí tuệ và giúp chúng ta giải phóng những nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời. Vì thế, người Phật tử tại gia, khi tới chùa không nên làm những điều sau:

1- Không nên quá gần gũi, chuyện trò thân mật với chư Tăng Ni.

 Vì như thế đôi khi mình xem thường chư Tăng Ni, hoặc nảy sinh tình cảm riêng tư.

 2- Không nên một mình (khác giới tính) cố tình gặp gỡ, thưa thỉnh giáo pháp với chư Tăng Ni ở chỗ khuất hoặc nơi không có người.

 Vì như thế sẽ dễ gây ra sự hiểu lầm về tình cảm.

 3- Không nên kết nghĩa anh em, chị em, cha con, mẹ con với chư Tăng Ni. 

 Vì chư Tăng Ni đã "cắt ái từ thân" để xuất gia tu hành. Nếu mình làm như vậy có nghĩa là đẩy chư Tăng Ni vào thế bất hiếu với cha mẹ ruột, bất nghĩa với anh em ruột. Bởi đã làm con phải có bổn phận báo hiếu và đền ơn.

 4- Không nên vì quá thân mà có những hành động như nắm tay, sửa áo cho chư Tăng Ni.

 Vì như thế dễ gây ra cảm thọ thích thú trần tục.

 5- Không nên ngồi trực diện rồi nhìn một cách đắm đuối, say mê vào mắt của chư Tăng Ni trong khi nói chuyện.

 Vì như thế nhãn xúc của mình sẽ sinh ra cảm thọ, rồi thọ sinh ra ái, tức thích ngắm, dễ gây ra sự muốn nắm giữ. Đó là ái sinh thủ!

 6- Không nên thường xuyên gọi điện, chat chít hoặc liên lạc bằng bất cứ hình thức nào với chư Tăng Ni.

 Vì như thế sẽ tạo thành thói quen. Nếu không chuyện trò được sẽ cảm thấy khó chịu. Đôi khi vì thương mình nên chư Tăng Ni phải cố gắng cầm máy cho mình vui. Nhưng nếu lâu ngày cũng sẽ dẫn đến thói quen không nên có.

 7- Không nên nhắc tới chư Tăng Ni một cách thao thao bất tuyệt trước mặt vợ hoặc chồng mình khi họ chưa phải là Phật tử.

 Vì như thế dễ gây nên sự hiểu nhầm, thậm chí là ghen tuông vô cớ làm mất hoà khí gia đình. 

 8- Không nên không cung kính cha mẹ như cung kính chư Tăng Ni khi thỉnh mời chư Tăng Ni về nhà mình có duyên sự, hay dẫn cha mẹ vào chùa.

 Vì như thế sẽ làm cha mẹ buồn khi cha mẹ chưa biết về đạo Phật. Nên nhớ, cha và mẹ chính là hai vị Phật ở trong nhà để chúng ta cung dưỡng suốt đời.

 9- Không nên vì được chư Tăng Ni tin tưởng giao phó công việc mà tỏ thái độ khinh khi người khác.

 Vì như thế là mình đang lạm dụng quyền lực để hà khắc người khác. Như vậy chính mình đang tự chuốc lấy bệnh kiêu căng!

 10- Không nên nhận lãnh trách nhiệm lo toan việc ẩm thực, bếp núc ở trong chùa.

 Vì sao?  Vì nhà bếp là đầu mối lớn nhất gây ra sự mâu thuẫn, chia bè, rẽ cánh trong đạo tràng. Bởi những người nhận lãnh công việc này đôi khi vì áp lực công việc nhiều nên dễ sinh tâm cáu gắt, bực dọc. 
 
Đôi khi vì tính bảo thủ, không nghe những lời góp ý của người khác nên sinh tâm cố chấp. Đôi khi thấy mình là người quan trọng nên sinh tâm kiêu mạn, coi thường người khác. Thậm chí kể cả chư Tăng Ni trẻ ở trong chùa. Trên thực tế đã xảy ra trường hợp nhà bếp biểu tình nên cả chùa hôm đó phải ăn mỳ gói.

Biết được nguyên nhân như thế nên nhiều chùa không giao phó công việc này cho giới cư sỹ. Mọi việc bếp núc đều do chư Tăng Ni trong chùa đảm trách. Ai có lòng thì phụ giúp công quả một tay. Vì vậy không còn sự mâu thuẫn hay cãi cọ sinh ra từ nhà bếp.

 11- Không nên mang thực phẩm mặn vào chùa (bắc truyền) bằng bất cứ hình thức nào.

 Vì như thế là mình đang làm hư hoại giáo pháp, phỉ báng giáo pháp, đồng hành với việc dung túng cho việc phá giới.

  12- Không nên chấp rằng đây là chùa tôi, thầy của tôi, rồi sinh tâm phân biệt, so sánh, thậm chí là dèm pha đối với chư Tăng Ni hoặc bạn đạo ở các chùa khác.

 Nên nhớ, Tăng là một đoàn thể tu hành thanh tịnh gồm bốn vị trở lên. Mỗi khi chúng ta đã phát nguyện rằng: Tự quy y Phật, tự quy y Pháp và tự quy y Tăng, tức là chúng ta đã tự quy y với tất cả chư Tăng Ni trong khắp mười phương. Sau khi quy y trở thành Phật tử cũng đồng nghĩa tất cả là con một nhà.

 13- Không nên thấy người khác thân cận chư Tăng Ni bấy lâu mình cung kính và cung dưỡng mà sinh tâm ganh tị.

 Vì như thế là mình đang dính mắc thói hẹp hòi và ích kỷ.

 14- Không nên mặc đồ hở hang, cụt cỡn khi tới chùa. Ví dụ như:

 - Không nên mặc áo bó sát người làm cho vòng 1 nổi bật.

 - Không nên mặc áo rộng cổ, làm lộ rõ những đường nét của phần trên cơ thể.

 - Không nên mặc áo xẻ tà quá cao để khoe phần hông sườn.

 - Không nên mặc quần cộc bên trong rồi khoác áo tràng bên ngoài. Mỗi khi ngồi xuống hay đứng lên đều tạo ra sự kịch cỡm không đẹp mắt.

 - Không nên mặc áo quá ngắn và quần cạp trễ. Để rồi mỗi khi mình cúi lạy hoặc làm việc gì đó thì hở hết phần mông ra ngoài, rất dễ gây phản cảm cho mọi người xung quanh.

 - Không nên mặc các loại quần áo quá mỏng rồi đi lại hoặc đứng ở trước các lối cửa ra vào có nhiều ánh sáng. Vì từ góc tối nhìn ra, cơ thể mình sẽ bị "hiện rõ nguyên hình" giống như kính chiếu yêu vậy.

 Vì như thế sẽ làm mất đi vẻ đẹp mỹ quan thanh tịnh chốn thiền môn.

 Vì như thế mình sẽ trở thành người không biết sự xấu hổ.

 Vì như thế mình đang đánh mất đi nét thuần phong mỹ tục truyền thống.

 15- Không nên mang chuyện thị phi vào chùa để đàm tếu, phù phiếm. 

 Vì chùa là nơi thanh tịnh trang nghiêm, là môi trường tốt để học tập và tu dưỡng các điều đạo đức. Chính vì thế cho nên mình hãy cùng nhau gìn giữ và bảo vệ thật tốt, xin  đừng làm ô nhiễm môi trường thanh tịnh đó.

 16- Không nên cho rằng mình là người Phật tử đi chùa và phụng sự lâu năm ở đây mà tranh giành chỗ ngồi tốt với những người khác. 

 Vì như thế là đang rơi vào sự "tu càng lâu, ngã mạn càng nhiều".

 17- Không nên tự ý xông thẳng vào phòng, thất của chư Tăng Ni mà không gõ cửa hoặc chưa được phép.

 Vì như thế là mất lịch sự và không tôn trọng quyền riêng tư.

 18- Không nên nói lời thô tục, nói lời đưa đẩy nịnh hót, nói lời trăng hoa, nói lời phù phiếm, nói lời hung dữ, ngữ điệu khó nghe, làm náo loạn sân chùa.

 Vì như thế là đang tạo ra khẩu nghiệp xấu ác tại nơi thanh tịnh.

 19- Không nên cùng một lúc thắp hương (nhang) quá nhiều trong chánh điện.

 Vì như thế tượng Phật và chánh điện sẽ nhanh bị hoen ố bởi khói hương, dẫn đến việc tốn tiền, tốn công, tốn sức của nhà chùa phải sơn sửa lại. Ngoài ra còn dễ gây hoả hoạn.

 20- Không nên ganh tỵ với những người bạn đạo khi thấy họ cúng dường Tam Bảo nhiều hơn mình. Khả năng bao nhiêu thì cúng dường bấy nhiêu, đừng cố gắng vay mượn để cúng dường Tam Bảo cho bằng chị bằng em, để rồi phải mắc nợ.

 Vì trước khi cúng, trong khi cúng và sau khi cúng, dù ít dù nhiều, khi tâm chúng ta được thanh tịnh và hoan hỷ thì phước báu như nhau.

 21- Không nên ỷ vào mình là một trong những đại thí chủ rồi tự cho mình có tiếng nói và quyền hành quan trọng nên bắt buộc chư Tăng Ni phải chiều theo ý mình. Nếu không chiều theo thì mình bỏ chùa và không còn tiếp tục đóng góp nữa.

 Vì như thế là tâm tham đắm danh vọng và lòng kiêu mạn đang nổi lên.

 22- Không nên ỷ vào việc mình lập chùa, thỉnh mời chư Tăng Ni về trụ trì, rồi tự cho mình được quyền tổ chức, quản lý nhất cử nhất động của chư Tăng Ni (đặc biệt ở hải ngoại).

 Vì như thế mình đang trở thành "ban trị Sư", cầu danh, cầu lợi bất chính.

 23- Không nên mải mê với các việc Phật sự, công quả hay công phu trong chùa mà lơ là công việc, bổn phận và trách nhiệm trong gia đình.

 Vì như thế là mình đang rơi vào tình cảnh "đạo muốn dời mà đời không muốn bỏ". Làm cho cha mẹ, vợ chồng, con cái buồn lo. Vẫn còn đó những điều không nên làm khi tới chùa. Kính mong quý Ngài, chư vị minh đức soi sáng thêm cho chúng con. Để chúng con, những người tại gia học Phật góp phần giữ gìn và tôn vinh thêm nét đẹp thanh tịnh ở chốn Thiền môn.

 Nam Mô Thường Hoan Hỷ Bồ Tát Ma Ha Tát!
Ý kiến bạn đọc
01/01/201702:45
Khách
Rat bo ich
ADIDaPHat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6926)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4316)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9150)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5481)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5115)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5708)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6202)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5213)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]