Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyên Ngôn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về trách nhiệm toàn cầu

15/09/201621:03(Xem: 8494)
Tuyên Ngôn của Đức Đạt Lai Lạt Ma về trách nhiệm toàn cầu

 

TUYÊN  NGÔN của Đức  ĐẠT-LAI  LẠT-MA

về TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

 

Mối quan tâm của tôi trải rộng đến từng thành phần trong gia đình nhân loại, đúng hơn là đến tất cả chúng sinh đang phải gánh chịu khổ đau. Tôi tin rằng sự thiếu hiểu biết là nguyên nhân của tất cả mọi khổ đau. Chỉ vì đuổi bắt hạnh phúc và các sự thích thú ích kỷ mà chúng ta gây ra khổ đau cho kẻ khác. Thế nhưng hạnh phúc đích thật thì chỉ phát sinh từ tình nhân ái chân thật mà thôi. Chúng ta cần phải huy động ý thức trách nhiệm toàn cầu giữa mỗi người trong chúng ta và đối với cả hành tinh này, nơi mà chúng ta cùng chung sống.

                                                                                                                            Đức Đạt-lai Lạt-ma

 

 

Lời giới thiệu của người dịch

 

            Khoảng giữa năm 2016, Đức Đạt-lai Lạt-ma và bà Sofia Stril-Rever, chuyên gia tiếng Phạn, Tây Tạng học, nhà văn và cũng là đệ tử của Ngài đã cho phát hành một quyển sách nêu lên những vấn đề nóng bỏng của thế giới ngày nay: sự tàn phá môi sinh, tình trạng hung bạo và bất công xã hội. Sự ý thức về trách nhiệm của mỗi con người chúng ta đối với xã hội, con người và sự sống nói chung trên hành tinh này trở nên thật hết sức khẩn thiết.

 

            Đặc biệt nhất quyển sách này đã long trọng công bố "Bản Tuyên Ngôn của Đức Đạt-lai Lat-ma về Trách nhiệm toàn cầu", và đây cũng là chủ đích của quyển sách này. Bản tuyên ngôn gồm có hai phần:

 

            Phần I:  Ba ý thức về trách nhiệm toàn cầu

            Phần II: Mười một sự dấn thân vì sự sống.

 

            Phần I sẽ được chuyển ngữ dưới đây.

 

 

Tuyen-ngon-cua-Duc-DLLM

Hình bìa quyển sách

"Hiện Thực mới, thời đại của trách nhiệm toàn cầu"

 

 

 

BA Ý THỨC VỀ TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU

 

 

            Theo yêu cầu của Đức Đạt-lai Lạt-ma và dựa vào tinh thần giáo huấn của Ngài, bản văn này được trước tác bởi Bà Sofia Stril-Rever, sau đó đã được sửa chữa và công bố bởi Đại Đức Samdhong Rinpoché; Giáo sư Robert Thurman chủ tịch Tibet House (Trung Tâm Văn Hóa Tây Tạng tại Hoa Kỳ), giáo sư thực thụ phụ trách phân khoa Tây Tạng Học "Je Tsongkhapa" tại đại học Columbia tại Nữu Ước; Giáo sư Eric Itzkin giám đốc tổ chức "Immovable Heritage" tại Johannesburg (Nam Phi) và cũng là người viết tiểu sử của Mahatma Gandhi.

             

            Bản tuyên ngôn này đã được Đức Đạt-lai Lạt-ma duyệt lại tại Oxford ngày 15 tháng 9 năm 2015 trước khi phổ biến.

 

 

 Ý THỨC THỨ NHẤT

 

AN BÌNH TRONG NỘI TÂM

VÀ CHIA SẺ MỘT HIỆN THỰC CHUNG TRONG SỰ SỐNG

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống giữa lòng vũ trụ.

 

(chữ "tôi" ở đây và trong toàn bản tuyên ngôn này không chỉ có nghĩa là Đức Đạt-lai Lạt-ma mà là mỗi người trong chúng ta. Trong bản gốc tiếng Pháp chữ "tôi" được chỉ định thật rõ rệt là ở cả hai thể giống đực và cái - ghi chú thêm của người dịch).

 

            Trong số vốn liếng di truyền của tôi có cả thông điệp của vũ trụ này. Tôi được kết nối với tất cả chúng sinh khác và cùng chia sẻ một hiện thực chung của sự sống.

 

            Năng lực giúp con tim tôi đập cũng dự phần vào sự xoay vần của Địa Cầu và cả thiên hà. Nhịp thở là sự chuyển động làm cội nguồn cho sự sống, mỗi hơi thở của tôi đều hòa nhập với hơi thở của tất cả chúng sinh và cả hơi thở mênh mông của toàn thể vũ trụ.

 

            Trí tuệ nguyên sinh của các dân tộc từ nghìn xưa đã quán thấy được bí quyết mang lại hòa bình cho con người và thế giới. Thế nhưng từ khi xảy ra cuộc Cách mạng kỹ nghệ, con người đã đánh mất đi cái bí quyết ấy. Con tim trở nên sắt đá, con người gây chiến chống lại con người, và chống lại cả sự sống. Độc tố trong tâm thức con người đã đầu độc người mẹ Địa Cầu, làm cho các dòng sông bị nhiễm độc, đại duơng bị axít hóa , không khí bị ô nhiễm. Trong các vùng đô thị và khắp năm miền lục địa, hơi nóng trong không khí tăng cao khiến trở nên khó thở, để rồi trong tương lai sẽ khó tránh khỏi các thảm họa mang lại những khổ đau mênh mông.

 

            Thế nhưng con người trong thời đại tân tiến ngày nay vẫn còn tiếp tục tìm kiếm một lối thoát êm ả, an bình, không gây tổn thương cho nội tâm. Ngành Vật lý học hiện đại, cũng tương tự như các triết thuyết trong thời đại then chốt (1) nêu lên các nguyên lý căn bản về sự tương liên và tương tác, không những thuộc lãnh vực  vật chất mà cả tâm linh và xúc cảm. Tôi hiểu rằng mỗi hành động, ngôn từ và tư duy của tôi đều lưu lại những vết hằn trên dòng tri thức và sẽ trường tồn qua không gian và thời gian. Những hành động thù nghịch của tôi sẽ làm dâng cao những ngọn sóng hận thù và tàn phá, dậy lên trong đại dương khổ đau của thế giới này. Những hành động thương yêu và nhân từ của tôi sẽ hóa thành những gợn sóng hân hoan lan rộng đến các ranh giới tận cùng của vũ trụ.

 

            Tôi ý thức được rằng sự an vui của tất cả chúng sinh tùy thuộc vào sự quân bình của các hệ thống môi sinh, các hệ thống này lại tùy thuộc vào sự an bình bên trong con tim của con người và tinh thần tôn trọng công lý của các xã hội con người, trong các xã hội đó không một ai bị gạt ra bên lề, bị thương tổn vì đói khổ, nghèo nàn, xác xơ. Với một tâm thức bình lặng, không thiên vị, không bám víu, không hận thù, tôi xin góp sức duy trì và tái lập sự hài hòa cho sự sống.

 

            Sống với sự an bình và một nội tâm khỏe mạnh, từng hành động của tôi đều nhằm mang lại sự tốt lành cho tất cả chúng sinh, dù là con người hay không phải là con người, và cũng là cả một sự cổ vũ kêu gọi mọi người hãy sống trong niềm hân hoan của tình thương yêu toàn cầu, tương tự như một sự sống bên trong sự sống.

 

 

Ý THỨC THỨ HAI

 

NHÂN TÍNH TRONG NỘI TÂM CỦA CHÚNG TA

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống, giữa lòng nhân loại và cũng là gia đình của tôi.

 

            Những mối dây buộc chặt kết nối tôi với với 7 tỉ anh chị em tôi và tất cả các chúng sinh khác dù không phải là con người, tất cả cùng nhau chia sẻ một cuộc phiêu lưu giữa sự sống này. Tôi ý thức được rằng những ai đến gần với chúng ta là những người hàm chứa một sức mạnh to lớn hơn nhiều so với những kẻ tách ra xa chúng ta, và rất thường thì họ là những người chia rẽ chúng ta.

 

            Dầu da tôi màu gì, tôi mang quốc tịch nào, theo tôn giáo nào, giàu hay nghèo, niềm tin cá nhân của tôi là gì, thì từ bản chất tôi cũng là một con người như tất cả mọi người, cùng chia sẻ một niềm ước vọng giống nhau là tìm được hạnh phúc, biết thương yêu và được thương yêu. Dựa vào nhân tính bên trong nội tâm tôi, tôi hiểu rằng giữa thời buổi ngày nay tôi không thể nào sống tách ra khỏi thế giới. Các biến cố dù xảy ra ở một nơi nào thật xa xôi cũng đều ảnh hưởng đến tôi và toàn thể hành tinh này. Mỗi khó khăn xảy ra ở một địa phương xa xôi nào cũng tạo ra những tác động toàn cầu, lan ra bên ngoài biên giới quốc gia.  

 

            Tôi ý thức được rằng trong một bối cảnh mà tác động của sự tương liên bị suy giảm vì chủ trương toàn cầu hóa và công nghệ hóa, sự phát triển của xã hội con người và việc bảo vệ môi sinh phải được xây dựng trước hết trên tình tương trợ. Duy nhất chỉ có lòng vị tha mới giúp tôi ý thức được trách nhiệm toàn cầu của tôi và thúc dục tôi hành động vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

 

            Sự an bình trong nội tâm, tình thương yêu và lòng từ bi không những nêu lên một lý tưởng cao đẹp, mà còn là một giải pháp thực tế trong bối cảnh của một hiện thực mới, nhằm bảo vệ quyền lợi chung chống lại sự mất gốc của xã hội và sự băng hoại của tinh thần tương trợ.

 

            Trước sự khẩn thiết tạo ra một sự hợp tác chung, tôi hiểu rằng căn bản vững chắc nhất có thể mang lại sự phát triển lâu bền cho toàn thế giới phải được dựa vào sự tu tập của cá nhân tôi, và cũng là để chia sẻ với tất cả mọi người, nhằm mang lại sự an bình nội tâm, tình thương yêu và lòng tử bi.

 

            Đấy là cách làm trổi dậy trong tôi niềm hy vọng và lòng tin vào cộng đồng xã hội trước số phận chung của nhân loại.

 

 

Ý THỨC THỨ BA

 

SATYAGRAHA, HAY SỨC MẠNH CỦA SỰ THẬT

 

 

            Sinh ra trên Địa Cầu này, tôi là đứa con của sự sống, trong lòng sự an bình rộng lớn của thiên nhiên.

 

            Thế nhưng các quyển sử và cả thời sự hằng ngày thường thuật lại sự tiếp diễn không ngừng của chiến tranh, xung đột, thảm họa, cùng các tin ngắn về những sự hung bạo. Thật hết sức dễ để đưa đến kết luận là điều xấu luôn mạnh hơn điều tốt. Thế nhưng sau khi làm cho những sự xao động tâm thần lắng xuống và nhìn vào một chốn thật sâu trong tôi, thì tôi cũng trở thành chính sự an bình. Tôi cũng chạm được vào sự thật trong tôi, sự thật của thương yêu và hiểu biết. Tôi ý thức được sự cần thiết phải trau dồi thêm không những sự hợp lý của lý trí mà cả các khả năng đáng kể khác trong tâm thức tôi, chẳng hạn như tình thương yêu, lòng từ bi, tính hào hiệp và sự tha thứ. 

 

            Tôi ý thức được rằng sức mạnh của điều xấu không mang một nền tảng vững chắc nào, do đó có thể khống chế được nó. Hận thù chỉ là ảo giác, một hình thức tác động của vô minh. Một khi đã trở về được với bản thể đích thật của tôi thì tôi cũng sẽ khám phá ra được tấm lòng rộng lượng vô biên của sự sống trong tôi và cả quyền năng của sự sống đó. Hiện thực sâu xa và vững chắc của lòng từ tâm nêu lên cho tôi thấy rằng satyagraha, sức mạnh của sự thật, một khi được hiển lộ bằng tình thương yêu sẽ trở thành một thứ gì đó thật can trường.  

 

            Vào thời đại Internet và toàn cầu hóa này, mỗi khi cảm thấy bị lèo lái hay bị công cụ hóa bởi nền văn hóa kinh-tế-kỹ-thuật thì tôi ý thức được rằng tôi phải biến mình trở thành hiện thân của sự sáng suốt về một thứ trách nhiệm toàn cầu xây dựng trên sức mạnh của sự thật và tình thương yêu, mà Mahatma Gandhi gọi là satyagraha.  

 

            Satyagraha thường được dịch là "sức mạnh của sự thật" hay "sức mạnh tâm linh", chính là vũ khí mà tôi mang ra sử dụng trong cuộc chiến phi-bạo-lực chống lại mọi sự bất công. Bởi vì một khi sự thật bùng lên xuyên qua con người tôi thì tôi cũng sẽ trở thành một con người vô địch.

 

            Satyagraha đòi hỏi tôi phải chấp nhận khổ đau và hy sinh, nhưng không được phép sử dụng bạo lực, trong cuộc chiến đấu của tôi chống lại tất cả mọi hình thức khai thác và xâm phạm đến chúng sinh, dù là con người hay không phải con người.

 

            Sống với satyagraha trong từng ngày, dù chỉ là một trong số những người khác nhưng cũng cùng chung với họ, tôi sẽ trở thành một người kiến tạo hòa bình, công lý và sự thật. Là công dân của thế giới, tôi xin sẵn sàng chấp nhận những ràng buộc mới của một công dân trước trách nhiệm toàn cầu.     

 

            Không ép buộc cũng không lên án một ai và trong tinh thần kính trọng sự đa dạng, tôi xin làm gương nhắc nhở kẻ khác về quyết tâm nhận lãnh trách nhiệm toàn cầu của mình. Đấy chính là cách giúp cho các thế hệ mai sau có thể trông thấy được vào một ngày nào đó những điều mà tôi hằng ước mơ sẽ xảy đến với thế giới này, dù rằng ngày ấy có thể là tôi sẽ không còn đó để mà trông thấy.

 

            Trong giới hạn của khả năng tôi, với tinh thần hòa bình và tình thương yêu, tôi (2) xin hết lòng kiên trì kiến tạo một hiện thực mới cho Địa Cầu trong tình huynh đệ. 

 

                                                                                    Bures-sur-Yvette, 12.09.2016

                                                                                       Hoang Phong chuyển ngữ

                                                                                   

Ghi chú:

 

1- Câu này hàm ý nêu lên ý niệm triết học về một "thời đại then chốt"/âge axial/axial period, do một triết gia người Đức là Karl Jaspers (1883-1969) đưa ra. Đó là một thời đại rất lạ lùng kéo dài từ các thế kỷ thứ VIII đến thứ II trước Tây Lịch với sự xuất hiện của các bậc vĩ nhân như Khổng Tử, Đức Phật, các kinh Upanisad (Ấn Độ), Zarathoustra (hiền triết Ba Tư, Iran ngày nay), Homer, Plato... (các triết gia Hy lạp), đã mang lại những giá trị thật nhân bản cho con người và nhân loại.

 

2- "Cái tôi" thuờng là một thứ gì đó phải đè bẹp và loại bỏ, thế như "cái tôi" trong trường hợp trên đây thật đẹp và cao cả biết dường nào.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4564)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7402)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4800)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4910)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5356)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10337)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9157)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6458)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8858)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5045)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]