Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nụ Cười Chay

03/09/201620:23(Xem: 6913)
Nụ Cười Chay

NỤ CƯỜI CHAY

buddha-cuoi-chay

 

 

CƯỜI, LÀ GÌ? NÊN CHĂNG?

Người ta biết đến giá trị của cái Có nhưng không mấy ai biết được cái Dụng của cái Không.

Trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp, con người đã thể hiện những năng lực của bàn tay, khối óc và con tim … , nhưng ít ai biết tới một thứ đã tác động rất lớn lao và sâu xa đến bộ mặt thật của nhân loại, đó là Nụ Cười.

Thật vậy, chúng ta cứ tưởng tượng nếu thiếu vắng nụ cười thì thế giới con người sẽ như thế nào? Và sẽ đi về đâu?

Triết gia Bain (người Anh) đã phát biểu:

- Cười là đối ngược lại sự nghiêm trang. Hàng ngày đứng trước cái thế giới trang trọng và thúc bách của công việc, của bổn phận, chúng ta như bị trói buộc một cách căng thẳng vào mọi sự. Nếu thình lình thoát khỏi những ràng buộc ấy, (bằng tiếng cười) lập tức chúng ta cảm thấy vui sướng, phấn khởi, tình trạng này tương tự như bọn học sinh trong giờ ra chơi.

Đúng thế, cuộc sống càng gấp rút, bươn chải, thì tâm trí chúng ta càng khốn khổ vì bị trói buộc vào công việc, và luôn luôn tỏ ra căng thẳng. Nhất là trong thời đại công nghiệp - con người sản xuất nhiều của cải hơn, nhiều tiện nghi đến mức thừa thãi, nhưng tiếc thay con người hôm nay lại có quá ít tiếng cười. Một bức ảnh gần đây của một tay săn ảnh người Mỹ đã cho thấy, trên ảnh: từng đoàn người hối hả đi làm việc với khuôn mặt cứng đờ, ủ dột, lo âu mà không ai có một nụ cười. Ngay cả khi người ta đi chơi cũng vậy, (hoặc ngồi chuyện trò trong quán cà phê chẳng hạn) luôn luôn hối hả, tất bật, - không một ai có thể chường ra một bộ mặt tươi cười, khoan khoái.

Nụ cười quả cần thiết cho cuộc sống - nếu không muốn nói là vô cùng cần thiết, nếu chúng ta không muốn dẫy chết trong một nền văn minh sắp sửa sụp đổ bất kỳ lúc nào vì chiến tranh hạch tâm hoặc do sự hủy hoại môi sinh do con người tạo ra.

          Nguyễn Công Trứ đã nói:

Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe

Đời có vui sao chẳng cười khì?

Khóc thì ai cũng biết khóc, dường như bản năng con người là dễ dàng khóc, nhưng kiếp người này mấy ai sẵn nụ cười trên môi?

Đức Phật Thích Ca bảo: “Nước mắt chúng sinh chứa đầy hơn bốn biển”. Đó không phải là lời thở than mà là một nhận xét trung thực. Trong cái đại dương đầy nước mắt nầy, ta dẫu ráng buông một nụ cười thì cũng khó khăn - họa may chỉ là: cười xã giao, cười trừ, cười khan, cười gượng, cười nhạo, cười chua chát, cười đau khổ, cười tức tưởi, cười rầu rĩ, cười căm hận, cười đắng nghét, cười “tiếng khóc khô không lệ” (Xuân Diệu), cười mếu máo, cười ra nước mắt, ...

Các bậc cha mẹ cho đến nhà trường, xã hội, đều dạy cho chúng ta rất nhiều điều, nhưng chưa hề “dạy cười”. Người lớn khuyên “hãy làm người cho tốt” nghĩa là phải có những đức tính tối thiểu nào đó, nhưng quên rằng nếu không biết cười cho ra hồn thì … ta chỉ là “nửa người nửa ngợm nửa đười ươi” mà thôi. Khó mà làm nên một Con Người đầy đủ tính nhân văn và trí tuệ lắm. Vì sao?

Họ, kẻ không biết cười thì bộ mặt chằm quặm, căng thẳng, luôn luôn sống vật vờ, chẳng biết trôi về đâu. Không sống cũng không chết, họ chỉ hối hả trôi qua một chặng sanh tử “buồn tênh cát bụi” cho đến khi vô quan tài. Có thể họ là những siêu nhân, Batman hay Người Nhện hoặc một đại ca “chuyên đeo kính thầy bói” trong những bộ phim xã hội đen, hay những con người vắng mặt trên cõi sống rộn rã, tưng bừng này! Cứ ngỡ rằng, cười là chuyện “thiếu nghiêm túc”, mà quên rằng đôi khi lắm kẻ học suốt đời vẫn không biết cười là gì!

E rằng, điều này chúng ta buộc phải “tự học” mà thôi, không có con đường nào khác! Có sách dạy nấu ăn, dạy chính trị, kinh doanh, dạy đánh tennis, dạy yêu đương … khắp mọi đề tài, nhưng sách dạy cười thì ít ỏi lắm thay.

Nụ cười cũng cần thiết như là thực phẩm, tiện nghi vậy. Thiếu cơm gạo, thơ ca với lại cả … biểu diễn người đẹp chân dài, thì con người sẽ ốm yếu, còi cọc. Chắc chắn rồi. Nhưng, thiếu nụ cười thì con người không những không thể lớn lên nổi, mà còn chết dần mòn trong ao tù cuộc sống và trong lao ngục tiện nghi vật chất mà thôi. Cụ Nguyễn Văn Vĩnh hồi đầu thế kỷ 20, vốn là một nhà nho “khắc kỷ, thận độc” (tiết chế bản thân và cẩn thận khi ở một mình) luôn luôn đạo mạo nên cụ quen đè nén tâm lý, không hay cười, nhưng không sao. Tiếc rằng cụ đã viết báo đả phá và miệt thị “cái thói hay cười của người An Nam”, hãy xem là quá khứ nên quên.

 

NGƯỜI XƯA ĐÃ CƯỜI …

Ngày xưa ở Trung hoa có ba vị thiền sư, gọi là ba “Ông Phật Tếu”, bởi vì họ không bao giờ làm gì cả, ngoài việc ... Cười!

Họ vừa cười vui, từ làng xóm này tới chợ búa khác. Mọi người bao vây xung quanh ba ông sư ấy, ai nấy ngừng việc cày cấy, mua bán, quên mọi sự đời để cười theo, đôi khi quên cả mưu sinh, làm quan, lên chức!

Một kẻ kính tín yêu cầu: “Hãy thuyết pháp cho đệ tử!”, thì ba vị Phật Tếu cười ầm: “Có gì để thuyết? Đơn giản tụi chúng tôi chỉ biết cười và tiếng cười sẽ làm cho cuộc sống trở nên sâu thẳm, thanh khiết và sáng sủa hơn”.

Chợ búa trở nên vui nhộn như buổi tấu hài, như đại nhạc hội, như rạp xiếc. Không còn ai quan tâm lời lỗ, mọi cơ quan đều trở nên như bữa tiệc.

Người ta chỉ sống với âu lo, sợ hãi … nên ít có niềm vui nội tâm, làm cho khuôn mặt ai nấy đều ủ dột, cáu gắt, u buồn, bất an. Làm sao họ có thể buông ra một nụ cười vô tư, trong sáng, hoan lạc? Vậy nên, khi có cơ hội để quên lãng thế sự vặt vãnh, những cảnh đời tủn mủn, thì mọi người đều sướng thích, khoái hoạt và trong giây lát, đã bật lên những tiếng cười rộn rã. Rồi sau những tràng cười dài, tâm tư sẽ nhen nhúm đôi chút hy vọng, vài ba mơ ước nhỏ bé để tiếp tục sống khỏe, sống hạnh phúc.

Từ đó, người ta sực nhớ ra rằng, nụ cười cũng cần thiết hơn là cơm áo, bạc tiền, quyền lợi, danh vọng vậy! Hoặc đôi khi còn quan trọng, cần thiết, vượt hơn những thứ kia nữa!

Một hôm, một trong ba Ông Phật Tếu qua đời, mọi người dân bảo nhau:

- Bây giờ một “ngài” đã ngủm, chắc hai “ngài” còn lại mần chi mà cười nổi được!

Nhưng khi dân làng tới nơi, họ thấy hai vị Phật còn lại vẫn đang nhảy nhót, cười cợt tỉnh bơ. Vài người nói:

- Một người bạn vừa qua đời, mà các vị lại ca hát cười đùa như vậy?

Hai vị Phật Tếu cười:

- Cùng cười với nhau suốt cả cuộc đời, tụi tui phải tiếp tục cười để chia tay nhau bên bờ sinh tử chứ!

Một triết nhân phương Đông bảo: “Tiếng cười là vĩnh cửu như cuộc sống vậy. Các diễn viên và sân khấu có thể thay đổi. Nhưng vở diễn vẫn tiếp tục mãi. Cuộc sống là bất diệt, miên trường, không bao giờ ngừng nghỉ. Như sóng biển lúc thì trào dâng hoặc vỗ lao xao, lúc chìm lắng, thinh lặng, nhưng đại dương thì bao giờ cũng vẫn tồn tại. Bạn sống rồi bạn chết. Thiên hạ sống rồi thiên hạ qua đi, nhưng tiếng cười thì vẫn còn mãi mãi, luôn luôn là nhu cầu quan trọng của nhân gian.”

Khi mọi người đặt thi thể người quá cố lên giàn thiêu, thì một hiện tượng xảy ra: Trước khi tắt hơi, Ông Phật Tếu vừa quá cố kia giấu sẵn rất nhiều pháo hoa trong mình, cho nên khi gặp ngọn lửa, pháo hoa nổ tung và phọt lên không gian nhưng chùm bông đủ màu. Toàn thể không gian tràn ngập pháo hoa, nổ tung và phun ra vô số chùm bông lòe loẹt. Và cả làng bật nên tiếng cười, Cười chết bỏ, cười liên tục, cười hoài …

Đạo Phật dạy: Không có một cái gọi là Cái Chết. Cuộc sống vốn là một chuỗi sinh diệt liên tục không bao giờ ngưng nghỉ. Bởi vì một hiện tượng này kết thúc thì nẩy ra một hiện tượng khác, mới mẻ, sinh động hơn. Cho nên chúng ta có thể bảo rằng, cuộc sống không có điểm dừng mà luôn luôn bắt đầu dưới dạng thức này hoặc dạng thức khác.” (Tài liệu lưu trữ của Huỳnh Hội)

 

CÓ BAO NHIÊU CHỦNG LOẠI NỤ CƯỜI?

Các nhà khoa học cho rằng, Cười là một trong những hình thức diễn đạt cảm xúc tinh tế nhất của con người. Cười là cách tốt nhất để bộc lộ những trạng thái tình cảm con người chúng ta đang có. Nụ cười không chỉ để bày tỏ sự hài lòng mà còn vì nhiều nguyên nhân tâm lý và tình cảm phức tạp khác. Người ta đã liệt kê ra hàng chục kiểu cười khác nhau: cười mỉm chi, cười khẩy, cười ruồi, cười trừ, cười đểu, cười hết ga, cười xởi lởi, cười cầu tài...

Theo sự tìm hiểu và nhận định tạm thời của chúng tôi, trong vô số loại nụ cười của con người, thì chỉ có HAI loại nụ cười có thể thăng hoa tâm hồn chúng ta: đó là Nụ Cười Chay và Nụ Cười Minh Triết. Ở đây chỉ nói Nụ cười chay mà thôi, trong một cơ duyên khác, chúng tôi sẽ bàn đến Nụ Cười Minh Triết.

 

THẾ NÀO LÀ NỤ CƯỜI CHAY?

Chà, khó quá! Làm sao định nghĩa được từ ngữ Nụ Cười Chay, trong khi hầu hết tất cả chúng ta đều có những cuộc sống cực kỳ mặn? Sống mặn mà muốn nở một nụ cười chay, e rằng chúng ta chỉ trưng bày ra những nụ cười giả trá, không thật, hoặc chỉ là những nụ cười ỡm ờ, giả lả, như cười cầu tài, cười bổ bã, tếu táo cho qua truông qua ải. Cuộc đời có quá nhiều truông đèo hiểm trở cho nên đôi khi nụ cười của chúng ta cũng chỉ là nụ cười ba xạo, ba trợn, hay chăng?

          Thôi đành nhờ cậy vào tài uyên bác của nhà văn Phùng Khánh kiêm nữ tu Trí Hải định nghĩa giúp, đó là … gặp chuyện khó khăn thì xin nhờ cậy sư phụ ra tay chứ còn biết nương tựa vào ai? Đây là quan niệm rất nhân ái về Nụ Cười Chay, của một nữ sỹ kiêm nữ tu:

“... vẫn có những nụ cười rất đẹp đã tô điểm cho cuộc đời ảm đạm, đó là những nụ cười chay.

“Gọi là nụ cười chay, bởi vì nó thật hoàn toàn ... chay, không có một ẩn ý chua xót, mỉa mai, hiểm độc, mà chỉ đơn thuần là nụ cười. Lại nữa, nó không phải trả giá bằng nỗi khổ đau của mình (cười chua chát) hoặc của người khác (cười đắc thắng). Chỉ có những nụ cười như vậy mới xứng đáng được xem là “ánh mặt trời xua đuổi mùa đông ra khỏi nét mặt con người” như Victor Hugo diễn tả. .

 (Phùng Khánh-Trí Hải, “Từ Nguồn Diệu Pháp”  NXB Tôn giáo)

Trong một bài viết của bác sỹ Đỗ Hồng Ngọc, một vị thầy thuốc kiêm văn sỹ, đã cho biết:

Ngay khi còn ở trong thai mẹ, thai nhi chỉ có việc … ngủ và cười. Y học mới phát hiện gần đây là thai nhi cũng cười. (Thư gởi người bận rộn, trang 195).

Đối với bác sỹ họ Đỗ, thì nụ cười vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Người xưa cho rằng, nụ cười bằng mười thang thuốc bổ, nhưng bác sỹ còn đề cao sự quan trọng của nụ cười đến nỗi đã viết nên cuốn sách: “Nụ cười như ngàn thang thuốc bổ”, do nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2002.

Còn các triết gia Ấn độ thì từ lâu đã khẳng định giá trị tất yếu của nụ cười trong cuộc sống mà không cần chứng minh luận lý gì cả, phương pháp truyền đạt trực quan nhưng ra vẻ dứt khoát hơn. Nhà triết gia đương đại Bhagavan Rajneesh nói:

Tiếng cười có năng lực Thiền và năng lực Thuốc.

Tiếng cười chắc chắn làm thay đổi chính hoá chất trong thân tâm của bạn, làm chuyển hoá sóng não của bạn, làm thăng hoa trí tuệ của bạn, bạn trở nên thông minh hơn. Khi tiếng cười xuất hiện, phần tâm trí ngái ngủ bên trong bạn bỗng nhiên bừng tỉnh dậy. Tiếng cười đạt tới phần thâm sâu nhất của bộ não bạn, lay động tới trái tim thầm kín của bạn. Kẻ nào hay cười thì không thể đau tim, không thể tự tử được. (Từ Thuốc đến Thiền, GS Ngô Trung Việt dịch)

 

TẠI SAO BẠN KHÔNG BẮT ĐẦU CƯỜI LÊN?

Con khỉ không biết cười. Các nhà bác học chuyên về động vật tuyên bố: Loài vật dường như không bao giờ biết cười, chúng ta đành tin họ vậy. Chỉ có loài người mới biết cười.

Có kẻ bảo: Một nụ cười không làm mất mát gì cả, nhưng lại ban tặng rất nhiều. Nó làm giàu có những ai đón nhận nó mà không làm nghèo đi người sinh ra nó. Nụ cười nuôi dưỡng hạnh phúc trong gia đình, gầy dựng thiện ý trong làm ăn, và làm lớn mạnh mối tương giao trong tình bạn, mang đến sự thư giãn những khi ta mỏi mệt, niềm hi vọng những khi tuyệt vọng và ánh sáng những khi ta tăm tối trong muộn phiền.

Nụ cười, cũng như tình yêu, là cái không thể mua bán, vay mượn, hay thậm chí mua trả góp dài hạn, hay mượn tạm xài đỡ của người khác. Bởi vì, khi đó, nó chỉ là vật trao đổi bán chác miễn cưỡng và vô nghĩa, chứ không phải là nụ cười đúng nghĩa.

Có những người không bao giờ nở một nụ cười với bạn. Gặp những kẻ khốn khổ như vậy, chúng ta vẫn cứ nên trải lòng mình ra và tặng ngay một nụ cười miễn phí rồi biếu thêm liên tục. Họ là những người dè sẻn của cải và keo kiệt luôn cả nụ cười, vì lẽ đó, họ chính là những người tội nghiệp nhất thế gian - họ cần nụ cười hơn ai hết. Hãy tươi cười với mọi người. Chúng ta chẳng những không mất gì, mà trái lại, sẽ nhận được rất nhiều.

Khi nhà báo Ngọc Anh phỏng vấn nhà văn Lê Đạt nhân giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007:

- Sau từng ấy thăng trầm trong cuộc sống, ở tuổi 79, nhiều người ngạc nhiên khi thấy ông luôn vui vẻ và hài hước?

Nhà thơ Lê Đạt trả lời:

- Nếu không hài hước để sống thì tôi không thể là tôi bây giờ. Làm sao có thể tưởng tượng được mình đang là người tử tế thế này, một buổi sáng thức dậy bỗng nhiên trở thành một thằng hủi. Bạn bè hôm qua tay bắt mặt mừng, hôm nay nhìn thấy mình đi bên này là phải đổi sang vỉa hè bên kia. Kinh khủng lắm!

Vâng, chúng ta hoàn toàn cảm thông với nhà văn Lê Đạt: Chỉ có nụ cười hài hước mới giúp ta trụ vững giữa cuộc sống mà không tỏ ra thù hận bất cứ ai. Nụ cười sẽ làm khô những vết thương tấy mủ và đưa chúng ta tới chân trời khoan dung, khoáng đãng.

Do đó, tất cả giáo lý của mọi nền minh triết Ấn độ đều nhiệt liệt cổ vũ cho nụ cười. Và từ đó, hàng trăm triệu du khách khi ghé thăm đất nước Ấn độ đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến giữa cuộc sống nghèo khổ, khó khăn nhưng người dân quê Ấn độ vẫn luôn luôn nở nụ cười trên môi và cả trong ánh mắt. Và trong kho tàng chuyện cổ sau đây:

Theo lời yêu cầu của các đệ tử, một vị đạo sư Ấn độ đã thuật lại các giai đoạn tu tập của mình: Trước hết, ta được Đấng Chí Tôn nắm tay dẫn đến xứ sở của những công tác từ thiện. Ta đã lưu trú ở đây để phục vụ chúng sanh một thời gian.

Tiếp theo, Ngài đưa ta đến chốn đau thương. Tại nơi đây, tâm hồn ta được tẩy rửa hoàn toàn khỏi mọi khổ lụy và hạnh phúc thế gian.

Sau đó Ngài đưa ta đến miền đất cô đơn, nơi ấy mọi giấc mơ nhỏ bé của con người đều bị diệt tận, để ta có thể chảy tan vào chốn tịch liêu, của sự im lặng siêu việt. Khi ấy, bao bí mật sâu kín của Sinh và Tử đều được hé mở rõ rệt.

Nghe tới đây, tất cả các đệ tử liền hỏi:

-Phải chăng sư phụ đã đạt tới giai đoạn cuối cùng trong cuộc tìm kiếm chân lý?

Vị đạo sư bình thản trả lời:

- Đâu dễ dàng đến thế! Một ngày nọ, Đấng Chí Tôn nói: Lần cuối Ta sẽ đưa con đến chốn linh thiêng, sâu thẳm nhất của đền thánh để con được vĩnh viễn ở ngay trong lòng Ta.

Thế là Ngài cùng ta đi tới xứ sở của nụ cười.

 

MẸ THERESA KHUYÊN: HÃY CƯỜI VỚI BẤT CỨ AI

 

          Mẹ Teresa là một phụ nữ nhỏ bé, yếu ớt nhưng bằng những hành động nhân ái phát xuất từ niềm tin chân thật của mình, Mẹ Teresa đã trở thành chỗ nương tựa và là nguồn cảm hứng vô tận cho vô số con người bị bỏ rơi trên hành tinh đầy rẫy bất công và gian trá này.

"Quí vị hãy về và hãy ban tặng cho nhau những nụ cười. Một nụ cười cho vợ của ông. Một nụ cười cho chồng của bà. Một nụ cười cho con cái của ông bà. Hãy cười tươi với tất cả mọi người, bất luận người đó là ai. Với những nụ cười tươi như thế, quí vị sẽ lớn lên trong tình yêu hỗ tương.

Mẹ Teresa: "Hãy cười với nhau, ngay cả với kẻ có thù oán với các con mà không cần nhìn vào mắt của họ."

Lần khác, khi bàn về Bí quyết hạnh phúc Mẹ bảo: Hãy trao tặng một nụ cười!

          …

          Và bạn cũng có thể trình bày vô số kiểu cười khác nhau, chủng loại nụ cười khác nhau, chẳng có ai giống ai. Và ngay cả trong một con người cũng luôn luôn ẩn giấu không biết bao nhiêu cung cách nhếch môi để … cười, tùy theo nội tâm  rung động và hoàn cảnh ứng xử của mình.

Miễn sao, đó là nụ cười chay: Nụ cười chỉ thuần tuý … cười. Không ẩn ý, không mưu toan, không ám chỉ bất kỳ ai, bất kỳ điều gì, việc gì. Mà cười và cười mà thôi …

 

          NGUYỄN XUÂN CHIẾN

Ý kiến bạn đọc
03/09/201622:09
Khách
Cuoi lam cho con nguoi song lac quan, tri duoc dau benh. Toi nghi goi bai "cuoi chay" nay den cho nhung nguoi benh ung thu doc de giup ho song yeu minh, yeu doi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/11/2017(Xem: 7717)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11478)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10101)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10410)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
26/10/2017(Xem: 9895)
Tông Câu-xá ngày nay không còn, mặc dù trước kia, tông ấy đã có một thời hưng thịnh với rất nhiều người tu tập theo. Tuy nhiên, ảnh hưởng sâu sắc của tông này cho đến nay vẫn còn rất rõ rệt trong Phật giáo. Tên gọi Câu-xá của tông này vốn được phiên âm từ tiếng Phạn là Kośa, có nghĩa là “kho báu”. Đây cũng là tên gọi một bộ luận nổi tiếng của Bồ Tát Thế Thân. Tên tiếng Phạn của bộ luận này là Abhidharmakoa-stra, phiên âm là A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận, và là giáo lý căn bản của Câu-xá tông. Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, người đã sáng lập ra Duy thức tông. Câu-xá tông là một tông thuộc Tiểu thừa, trong khi đó Duy thức tông là một tông Đại thừa. Ban đầu, ngài Thế Thân học theo giáo lý Tiểu thừa, thuộc Nhất thiết hữu bộ, là một trong 18 bộ phái Tiểu thừa đầu tiên của Ấn Độ đã phân chia sau khi Phật nhập diệt khoảng gần 200 năm. Ngà
23/10/2017(Xem: 29411)
Tin vui: Tế bào ung thư bị tiêu diệt trong 42 ngày bằng ly nước ép đã thành công ngoài mong đợi, cả thế giới đang mở tiệc để ăn mừng, Rudolf Breuss đã dành cả cuộc đời để tìm cách chữa bệnh ung thư và cuối cùng vị nhân sĩ người Áo này đã thành công.
23/10/2017(Xem: 102073)
Gần hai tuần qua chúng ta nghe tin tức phóng sự trên các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc Hoa Kỳ về cảnh cháy rừng khủng khiếp ở vùng bắc San Francisco bang California. Theo báo cáo cách đây 4 ngày thì khoảng 250,000 km2 diện tích bị cháy (tương đương với diện tích tiểu bang New York). Nhà cửa bị cháy, 43 người chết, hơn 200 người mất tích, và gần 40,000 người phải di tản. Hiện nay đám cháy vẫn còn tiếp diễn nhưng ở một vài nơi cư dân di tản đã được phép trở về lại nhà của mình.
17/10/2017(Xem: 8617)
Văn hóa Phật giáo tại hội sách Frankfurt Book Fair lớn nhất thế giới 2017 Đây là lần đầu tiên 2 chúng tôi đi Đức và cũng là lần đầu tiên đến với hội sách lớn nhất thế giới Frankfurt Book Fair. Chúng tôi lại được Thầy của chúng tôi, TS Nguyễn Mạnh Hùng trực tiếp dẫn đi. Một tuần ở hội sách chúng tôi mệt lừ nhưng ai cũng hạnh phúc vì chúng tôi học được rất nhiều và hơn thế nữa những trải nghiệm từ nhiều góc độ làm chúng tôi trưởng thành hơn. Nhưng trong bài này, chúng tôi chỉ chia sẻ 1 góc rất nhỏ về văn hóa Phật giáo ở đây trong những ngày qua.
17/10/2017(Xem: 7874)
Niềm vui của việc gặp gở những người ta yêu, nổi buồn của việc mất mát người thân, sự phong phú của của những giấc mơ đầy sức sống, sự an bình của những bước chân qua khu vườn vào một ngày xuân, sự hoàn toàn an định trong một thể trạng thiền tập sâu xa – những thứ này và những thứ nọ giống như chúng cấu thành một thực tại kinh nghiệm của chúng ta về [tâm] thức. Bất chấp nội dung của bất cứ kinh nghiệm nào trong ấy là gì, thì không ai trong tâm nhạy cảm của họ có thể nghi ngờ về thực tại ấy.
15/10/2017(Xem: 11539)
Giới đàn là một trong những sinh hoạt đặc thù của Tăng-già, được quy định hết sức chặt chẽ trong Luật tạng. Tuy nhiên, ở một số địa phương, việc thực hiện giới đàn chưa được quan tâm một cách nghiêm túc cần thiết. Sau đây là một trong những hiện tượng như thế. Từ lá thư hoài nghi của một tân giới tử Tỳ-kheo-ni… Vào một buổi chiều tháng 12 gần cuối nămdương lịch, người viết tới thăm Hòa thượng Luật sư Thích Minh Thông tại Giới đàn viện Huệ Nghiêm. Vì là chỗ Thầy trò, cũng là để học hỏi và trao đổi giới luật với ngài nên chúng tôi thường xuyênlui tới mỗi khi có dịp. Lần này vào thăm ngài, bàn trà chưa kịp rót ra như mọi khi thì Hòa thượng đã vội đến bàn làm việc, lục tìm trong chồng thư từ ra một bức thư chuyển phát nhanh. Hòa thượng trở lại bàn trà và mở lá thư ra đọc cho người viết nghe nội dung bức thư ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]