Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chỉ cần Sống biết điểm dừng

24/08/201620:54(Xem: 21476)
Chỉ cần Sống biết điểm dừng
Photo:
 
 
  blank
Chứng bịnh trầm kha
 
Có một vị phú ông giàu có mặc dù tuổi chưa cao nhưng lại mắc phải một căn bệnh nan y. 
Ông cảm nhận được rằng bản thân mình không còn ở lại nhân gian được bao lâu nữa nên trong
 lòng vô cùng thống khổ, sợ hãi.
 
Một thời gian sau, ông tìm đến một vị đạo sĩ cao tuổi sống ẩn cư trên một ngôi chùa cổ. 
Vị đạo sĩ sau khi nghe phú ông giãi bày, liền nói: “Bệnh này của thí chủ, ngoại trừ một phương pháp 
này ra thì không thuốc nào có thể chữa trị được. Ta sẽ cho thí chủ ba phong thư, bên trong là ba thang thuốc. Thí chủ về nhà mở từng thang thuốc ra và làm theo, làm xong thang thứ nhất thì mở tiếp 
thang thứ hai và làm theo lời chỉ dẫn trong đó.” Về đến nhà, phú ông liền mở phong thư đựng thang thuốc thứ nhất ra.  Ông bất ngờ, bởi bên trong chỉ vẻn vẹn là một dòng chữ:
 
-  “Đạo hữu hãy đến bờ biển trong 21 ngày và mỗi ngày nằm trên bãi cát đó 30 phút!”
 
Phú ông đọc xong, trong lòng nửa tin nửa ngờ, nhưng vì không còn cách nào khác nên đành làm theo 
lời chỉ dẫn. Kết quả là mỗi ngày ông đều nằm trên bãi biển đó hơn hai giờ đồng hồ. Lúc này, 
ông chợt hiểu ra rằng, mỗi ngày trước đây của ông đều trôi qua trong bộn bề công việc, tìm kiếm 
tiền bạc và danh vọng. Ông nào có thời gian nằm nghe sóng vỗ, nghe tiếng chim hải âu như 
thế này. Trong lòng ông cảm thấy vô cùng khoan khoái và thoải mái.
 
Sang ngày thứ 22, phú ông lại mở tiếp thang thuốc thứ hai ra và thấy trên đó viết:
- “ Đạo hữu hãy tìm 5 con cá hoặc con sò trên bãi cát và thả chúng về biển, liên tục trong 21 ngày.” 
 
Vị phú ông trong lòng tràn đầy hoài nghi nhưng vẫn kiên trì làm theo lời chỉ dạy. Hàng ngày ông 
đều tìm được những chú cá con hay tôm nhỏ bị dạt vào bờ và thả chúng về với biển. Mặc dù không hiểu lý do của việc làm này nhưng trong lòng ông không khỏi cảm động khi nhìn chúng quẫy đuôi bơi vào biển sâu.  
Ngày thứ 43 vừa tới, phú ông mở thang thuốc thứ ba ra và chăm chú đọc dòng chữ viết trên đó:
 
-  “Đạo hữu hãy tìm một cành cây, rồi viết lên cát những oán hận và bất mãn của mình lên đó!” 
 
Phú ông mỗi ngày đều viết những oán hận và bất mãn của mình lên bờ cát, nhưng chẳng bao lâu 
thì sóng biển lại dâng cao và cuốn những dòng chữ mà ông viết trên cát ấy đi. Vị phú ông đột 
nhiên hiểu ra một điều gì đó và ông bật khóc.
 
Chẳng bao lâu sau, phú ông trở về nhà với cảm nhận toàn thân khoan khoái, thực sự nhẹ nhàng 
và tự tại, thậm chí lúc này ông còn quên hết nỗi sợ hãi về cái chết như trước đây.
 
Phú ông lại tìm đến vị đạo sĩ để tạ ơn. Vị đạo sĩ mỉm cười và nói:
 “Thí chủ có biết không? Nguyên lai, con người ta bởi vì không học được ba việc cho nên luôn cảm 
thấy không khoái hoạt, hạnh phúc!” .Phú ông hỏi lại vị đạo sĩ: “Thỉnh ngài chỉ rõ, đó là ba việc gì?”
Vị đạo sĩ nhìn vào khoảng không trước mặt và nói:
 
 “Đó chính là người ta bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi, tiền bạc mà quên mất nghỉ ngơi. Thứ hai,
 phải biết cho đi, phó xuất đi thì người ta mới nhận lại được hạnh phúc. Thứ ba, sống trên đời 
phải biết buông bỏ, đừng giữ khăng khăng những điều không nên giữ như tâm oán hận, bất mãn…”
 
Tham lam chính là một loại độc dược, dục vọng, ham muốn của con người luôn là không có điểm dừng. 
Khi người ta có cuộc sống ổn định rồi, lại có tâm muốn truy cầu sự nhàn nhã, có cuộc sống nhàn
 nhã rồi lại muốn được hưởng thụ những vật phẩm xa xỉ. Chỉ vì lòng tham, ham muốn của con người
 không có điểm dừng là con người mãi mãi không thể thực sự vui vẻ, hạnh phúc. Chúng ta thường nghe 
câu triết lý nhân sinh rằng, người biết đủ, biết hài lòng thường vui vẻ khoái hoạt. 
 
- Quý trọng hết thảy những điều mà bạn đang có trong hiện tại, bạn sẽ phát hiện ra rằng, 
mình đang là người giàu có nhất!
 
Photo:
Mơ Hoang
 
Không ai sống mãi trăm năm
Thế mà tính chuyện xa xăm ngàn đời
Không ai biết được tuổi trời
Mà ôm mộng tưởng đổi dời thế gian, 
 
Không ai đẹp mãi dung nhan
Mà mong hoa thắm chẳng tàn chiều hôm.
Nào ai vui mãi không buồn
Dùng dằng, dan díu.. cuối đường chia xa.. 
 
Thở vào.. có lúc thở ra
Giữa hai hơi thở.. đời ta lắm điều?
Không ai dám bỏ tình yêu
Dù tình ẩn chứa bao nhiêu lụy sầu
Có ai tóc chẳng bạc màu
Mà hoài dệt mộng bên cầu tử sinh.
Ít ai hạnh phúc một mình
Nên đành đánh đổi.. mong tìm chút vui.
 
Không ai ưng bước trở lui
Nên đường thiên lý ngậm ngùi ruổi dong.
Mấy ai về lại với lòng
Thú đau thương.. nhận chìm trong vô thường. 
Không ai sống mãi miên trường
Thì xin nhớ lẽ Chân thường tại Tâm .
Như Nhiên -Thích Tánh Tuệ
Himachal Jun 2014
Photo:
Photo:
blank
Photo:
Kính chia sẻ cùng cả nhà hình ảnh Khóa tu Một Ngày An Lạc tại chùa Phật Quốc 
tiểu bang Seatle USA do Sư cô Thích nữ Hạnh Nguyện trụ trì  (Saturday Aug 20, 2016)
Photo:
Photo:
Photo:
Photo:
Photo:
Photo:
佛菩薩的願力之-南無大行普賢菩薩十大願 - LULUMACHA - lulumacha’s blog
Ý kiến bạn đọc
20/09/201602:10
Khách
Nam Mô A Di Đà Phật!
26/08/201604:02
Khách
Adi đà phật con cảm ơn thầy cô
24/08/201622:53
Khách
adidaphat. rất hay ạ. con cảm ơn Thầy.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4946)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5091)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4442)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4116)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4700)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4162)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3608)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6964)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5058)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]