Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội

07/08/201620:29(Xem: 11089)
“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội
“ CÚNG CÔ HỒN “
 NHÌN TỪ CỬA SỔ XÃ HỘI
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
 Tháng bảy ngày rằm  xá tội vong nhân.
 ( ca dao)
cung-co-hon-1-man-cung-don-gian

             Trước đây, nhớ mùa Vu lan 2548, khi nhận lời viết bài cho một tạp chí Phật giáo, vị  thầy tổng biên tập có yêu cầu tôi là làm sao đừng nói những điều  người khác đã thường hay nói hoặc những việc  quá cũ để tránh bị trùng lắp, được nhắc đi nhắc lại nhiểu lần , đã trở thành điệp khúc muôn thưở. Nó giống như căn bệnh cố hữu của không ít vị  thầy là hay giảng những gì mình thích mà người khác đã  biết, dù bản thân không  phài là một giảng sư! Tôi chỉ ậm ừ cho qua vì biết  chắc chắn rằng tôi sẽ vẫn phải làm như thế !Không phải không có đề tài để viết, nhưng tự trong thâm tâm vẫn cứ thấy những vấn đề mình  sẽ nêu ra đây đúng là rất cũ, nhưng cuộc sống bên ngoài cửa sổ xã hội kia, khi bước ra nhìn chung quanh vẫn cuồn cuộn những điều tuy rất cũ ấy với cái nhìn có quán xét tư lương, thì nó  lại rất mới, mới liên tục như  trong mỗi tế bào thân thể chúng ta từng sát na thay đổi biết bao lần. Vì vậy bài viết này vẫn không đi ngoài  cơn lốc ấy, có nghĩa vẫn sẽ là một  chuyện rất...cũ !

                     Có một thời gian dài, các phương tiện truyền thông tuyên truyền lên án việc “cúng cô hồn” với rất nhiều  lý do  mang nặng  căn bệnh thiên kiến. Người ta dựa vào hình thức cúng trong  dân gian gọi là “cúng giựt dàn”, “cúng cô hồn” hay “cúng rằm tháng bảy” v...v..rồi thảy tiền cho trẻ con lượm, hoặc  tranh nhau giựt đồ cúng. Thế mới là “cúng cô hồn”! Đó là lý do  để  kích bác;   nào là  khinh miệt trẻ em (ý nói  nghèo đói phài giành giựt mà ăn), và  những thức ăn như khoai, bắp,  cóc, đậu, mía, bánh bò ... bị rơi vãi trong quá trình  “giựt” ấy thì cho rằng lãng phí và khi không xem trọng  của cài xã hội của  người làm ra nó! v..v... và v..v...

                   Chúng ta không trách họ sao chẵng tìm hiểu tường tận ý nghĩa “cái sự cúng kỳ lạ” ấy, và tại sao cá nhân, nhà nhà, tất nhiên cũng không thiếu các cơ quan xí nghiệp, nhà máy (ban đầu  phần đông ở lãnh vực tư nhân) cũng đầu phài cúng như vậy, nấu có điều kiện. nhưng chúng ta tiếc cho họ là tại sao ngay lúc chứng kiến những cảnh tượng “trái tai gai mắt” ấy mà không dừng lại, vào thẳng nhà  người cúng, ngăn càn lại và hỏi tại sai phải cúng như vậy? Còn nữa, đã nhả nhà, người người cúng cô hồn, mà mỗi chợ, mỗi xóm ấp thậm chí mỗi bác tài xế lái xe cũng đều làm như thế mỗi khi đến rằm tháng bảy hàng năm? Không ai bắt buộc ai phải cúng, người có tiền thì có mâm cúng đầy đủ, người  eo hẹp thì một vài cái bánh, chén cháo loãng  trước sân nhà cũng ấm lòng  nghĩa tình  mùa mưa ngâu tháng bảy. Như vậy, “cái sự cúng kỳ lạ” ấy nghiễm nhiên đã trở thành  tập quán cộng đồng nằm trong  một góc văn hóa sống của người Việt từ ngàn xưa. Có người lấy làm khó chịu trước  việc này mà trách móc tại sao cúng  cô hồn sao không cúng ở chùa, đình làng mà lại cúng ở chợ, ở cơ quan, xí nghiệp vá cả  các nhà dân, từng khu xóm ấp!
cung-co-hon-2-man-cung-tuong-doi

                     Nhớ xưa kia, có một lễ hội mang tên “Đổ Giàn” của làng võ An Thái, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, ngày nay đã được các cấp chính quyền sở tại cho phục dựng và tổ chức lại  hằng năm nhân ngày rằm tháng bảy âm lịch. Chính câu ca dao xưa đã thôi thúc trách nhiệm tỉnh Bình Định cho phục hồi lễ hội độc đáo này :

                   Đồn rằng An Thái, Chùa Bà

                  Làm chay, hát bội đông đà quá đông

                  Đàn bà cho chí đàn ông

                 Xem xong “ba ngọ”(*) lại trông đỗ giàn.

                   Tự hào về vùng đất võ An Nhơn của mình ( Trai An Nhơn, gái An Vinh ) hoặc Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái ) nên có bên cạnh một lễ hội “Đỗ Giàn” như vậy càng mang thêm ý nghĩa giàu truyền thống nhân văn, trong đó ngàoi  tiêu chí tưởng nhớ côn ơn  các bậc tiền hiền, giáo dục  tinh thần uống nước nhớ nguồn cho mai sai, còn có  thêm ý nghĩa thắt chặt thêm những mối tương duyên, gắn kết nghĩa tình  keo sơn như nhất  với nhau.

                  Tất nhiên  có được  như vậy là  nhờ vào  tinh thần hai ngàn năm Phật giáo VN đã từng bước thắm được vào lối sống, cách sồng xã hội, nhưng bài viết này xin không nói nhiều đến ý nghĩa rằm tháng bảy hay tục lệ “cúng cô hồn” có liên quan  hay ảnh hưởng tinh thần nhà Phật như thế nào, mà chỉ muốn nhấn mạnh  việc ”cúng cô hồn” đã trở thành tập tục -lễ hội dân gian, mang  tính xã hội rất cao. và như thế đã trở thành tài sản “|phi vật thể” quý giá của dân tộc từ rất lâu đời. Chính yếu tố  cộng đồng này này mà “cúng cô hồn” phải cúng ở những nơi công cộng, bên vệ đường, bến sông, đầu chợ.v...v.. và nếu ở tư gia thì nhất thiết phải là ở trước sân. Hướng đến thế giới của người  đã mất, để tưởng nhớ vá chia sớt ấm lạnh cho họ đó là  tinh thần Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi to lớn.  Trong thế giới người đà mất ấy vì  nghiệp dĩ vươn mang, khó siêu thoát nên còn vất vưỡng  đó đây chờ  ngày giờ thọ nghiệp nên mới gọi là “cô hồn” hoặc “oan hồn uổng tử” hay “ cô hồn các đản”. Oai linh chư Phật, Bồ Tát  hay những  Long Thần Hộ Pháp khiến những   cô hồn này rất  sợ không dám  đến gần  con người; do đó  Bồ Tát Quán Thế Âm  dùng  hiện thân Đại Sĩ của mình  thành Tiêu Diện để thống lỉnh họ  trên bước đường vất vưỡng nhân ngày “xá tội vong nhân” hằng năm, tiếp nhận từ  tấm lòng Từ Bi nơi con người một giọt nước giài oan, một vật thí ăn cho đỡ lòng tháng ngày vất vưởng.

                        Đến đây, có một điều không thể không  nhắc đến là việc “cúng cô hồn “ như vậy họ có ăn được hay không ! Trước hết có lẽ chúng ta  nên  nhấn mạnh đến tinh thần của  thế giới Hoa Nghiêm  là hãy nhìn và hiểu trong  nhận thức chớ không nên bị mê mờ trong  nhận định theo chiều hưpớng thực dụng đơn điệu. Bởi vì chỉ có cụm từ “ cúng có ăn được không” đã ghì chặt tư duy, quanh quẩn miệng chén của quan niệm thực dụng tội nghiệp, khó có cơ hội thoát ra, ghì chặt  vỏ bọc vô minh khó có cơ hội  thóat ra.  Nhớ lại từ hơn hai trăm năm  trước, khi đất nước ta  nghiêng ngửa bởi ách  nô vong , văn hóa  và bản sắc dân tộc đôi phen đứng bên bờ  hủy họai bởi làn sóng thực dụng, duy ý chí của phương diện vật lý  xâm lấn. Con người muốn bay khỏi mặt đất phải gắn vào lưng đôi cánh của  loài điểu thú. Vì bị đè nặng như vậy cho nên  khó có thể hiểu được  nhân vật Tôn Ngộ Không của cụ Ngô Thừa Ân ( 1500(?)- 1581) với 72 phép thần thông đi mây về gió  như thế nào chứ chưa nói đến nhiều  chuyện ẩn dụ khác! Ông Bụt trong cổ tích, cô tiên trong kho tàng  văn học  cổ  Việt Nam, hay những  con người  có sức mạnh thần thánh, bay về trời v...v...có ai bay lên khỏi mặt đất mà phải gắn đôi cánh chim bao giờ ?
cung-co-hon-3

                     Chính lối nhìn và hiểu bằng cặp mắt thực dụng nong cạn như vậy đã đầy con người  xa rời nguồn gốc, Tổ Tiên, xem thường nơi mình cắt rốn chôn nhao, thậm chí dễ dàng phản bội non sông đất nước, đến mức không còn biết phân biệt phải trái. Câu ca dao xưa ông bà mình lên án thành phần bất hiếu, vô nghì với mẹ cha cũng vì vậy mà  bị hiểu theo  tinh thần thực dụng, nghèo  nhận thức rất đáng thương“Sống thời chẵng chịu cho ăn/ chết thời  cúng tế làm văn tế ruồi”! Để rồi có lẽ chính những lối  “suy tư” lệch lạc này cứ ngày càng bổ sung vào đội ngũ “oan hồn ưổng tử” để ngày rằm tháng bày, “cúng cô hồn” hàng năm mãi còn ?

                       Chúng ta đừng quên ở phương Tây, cũng có lễ hội Halloween ( All Hollows’ Eve) diễn ra  cuối tháng 10 đầu tháng 11 dương lịch hằng năm. Một lễ hội nặng  về Gia Tô giáo. Theo Wikipedia thì đây là  tam nhật mùa các thánh (Allhallowtide) mùa tưởng nhớ các thánh và các tín dồ Gia tô tử đạo. Việc hóa trang  đeo mặt nạ  để trêu chọc và thách đố thần chết. Bên cạnh đó việc hóa trang mặt nạ chủ yếu dành cho cac em bé  thiếu nhi đến gõ cửa từng nhà xin thức ăn, kèn trống, lo ó náo động suốt đêm,  một hình thức mang rất đậm dáng vấp của một loại “cô hồn” ở phương Đông mà chúng ta đang nói đến, người có óc khôi hài  thì chỉ đích danh đó là “cô hồn sống”!

                      Trong thế giới của nhận thức, chuyện  cúng có ăn được hay không,  không thành vấn đề bận tâm, có chăng là kiến tạo được tinh thần Từ bi, lòng tương thân tương ái cao độ, vượt qua biên giới của sự sống chết, làm biên độ giáo dục vững chắc cho chính xã hội đương thời. Nhiều bậc giảng sư ngày trước đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Từ bi khác với Bái Ái hay Tình Thương như thế nào. Nói  dễ hiểu là Từ bi được ví như ánh sáng mặt trời rọi chiếu  khắp nơi, không phân biệt  hàn sang, giàu nghèo. Còn Bác ái chỉ là ngọn đèn phin  nằm trong tay  tham muốn đối tượng , mục đích của người sử dụng. Đó là Ái Kiến không hơn không kém. Vì thế  hai  từ Từ Bi hiện nay đã được sử dụng  rộng rải, không còn là của riêng Phật giáo, nhiều nơi khác đã dùng chữ Từ Bi , chọn ánh sáng mặt trời thay vì ánh đèn pin nhỏ mọn và ích kỷ.

                        Ở trong mỗi ngôi chùa  thì không đợi đến rằm tháng báy mới “cúng cô hồn” mà mỗi ngày vào buổi xế chiều đều có các thời cúng thí thực đều đặn. Lớn hơn  thì trong các ngày lễ lớn quan trọng  còn có  lễ Trai Đàn Chẩn tế  quy mô. các nghi thức Phật giáo mỗi vùng miền  có khác nhau nhưng tựu trung vẫn là   dựa vào oai thấn Tiêu Diện Đại Sỉ, triệu thỉnh các vong linh để mong cầu giài thoát cho tất cà. Đến với những  cuội lễ này chúng ta dễ dàng cảm nhận giữa hai cõi Âm-Dương bến bờ nào có bao xa! Cũing có thể, qua đó, đôi khi chính mình lầm lẫn giữa ta và “cô hồn” ai là ai ! Vả cũng ở đó  bạn sẽ hiểu thêm câu thơ trong văn tế thập loại chúing sanh của cụ Tiên điền Nguyễn Du ( 1766 - 1820 ) có đoạn : “Ai đến đây dưới trtên ngồi lại/ Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu/ Phép thiêng biến ít thành nhiểu/ Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh..” Rất trùng hợp với ý thơ triết lý của thi hào  Ấn Độ Rabindranath Tagore ( 1861 - 1941 )” Trong sự sống thì nhiều biến thành một/ Trong cái chết thì một biến thành nhiều”.

                         Như vậy có thể thấy, việc “cúng cô hồn” mang tính  xã hỗi rất lớn, kết nối được tình thương giữa người và người, giữa hai bờ sống chết. Kiến tạo nê tình đoàn kết nhằm hước đến một cuộc sống hoàn mỹ và hoàn thiện hơn. Vậy chớp nên đem  cái  nhận thức hạn hẹp, biên kiến của mình để đánh giá  ý nghĩa cao đẹp của tập tục “cúng cô hồn” ấy  của người dân Việt chúng ta.

                        Ở một góc hẹp khác của mặt bằng xã hội, có những sự thật trần trụi như muốn vỗ đôm đốp vào mặt chúng ta buộc phải nhìn  và suy gẫm, cho dù có muốn tin là sự thật hay không. Trong cuộc thi viết  mang tên “ Sài gòn- TP.Hồ Chí Minh Kỷ Niệm Không Quên”do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2005, anh Thiện Nhân, một nhân chứng sống của cát bụi lầm than giữa đất  Sài gòn ngày lang bạt cơ nhỡ, đã có bài viết mang tên cộc lốc“Cúng Cô Hồn” , bài đã đạt giải khuyến khích và đăng trên báo này ngày 02/03/2005. Nôi dung bài viết ấy tác giả kể về tháng ngày  đói  khổ, tìm  sự sống  mà  mùa “cúng cô hồn”  hàng năm giúp anh no đủ  nữa tháng ( “cúng cô hồn” ở tư gia chỉ được bắt đầu từ  sau ngày rằm tháng bảy âm lịch cho đến hết tháng). Hết nhà này tới nhà khác, anh và đám bạn lang thang  no đủ “ nhờ  những vật phẩm ”cúng cô hồn “ ấy   giữa đất Sài thành hoa lệ này.  Sau này khi vượt khó vươn lên, có cuộc sống đủ đầy, hằng năm anh vẫn “cúng cô hồn” ngay trước cửa nhà mình và bố thi lương thực cho người  nghèo như để  nhớ ơn năm xưa chính những  khúc mía, bánh tép, bánh quy, đậu phộng ‘cúng cô hồn” giúp anh no lòng đỡ dạ của những người  Sài gòn năm xưa.
Cung-co-hon-4-man-cung-cua-gian-hang-ven-duong

                    Dòng sau cùng bài dự thi, anh Thiện Nhân viết” Giờ đây, mỗi năm cứ đến mùa Vu Lan, lẫn trong hương khói tôi như thấy cha mẹ mình hiện về. Cảm thương cho những thân phận cơ nhỡ. Người Sài gòn luôn nhớ ‘cúng cô hồn” cho trẻ con được bữa ăn ngon. Tôi cũng bày biện cúng mà nghe mặn đắng trên môi dòng nước mắt hôm nào kiếm ăn giữa xứ người. Sài gòn không không thiếu những tấm lòng, có khi chỉa qua vài cái bánh trên mâm cúng như một thói lệ  xa xưa còn truyền lại../.”

                  Trên mặt bằng xã hội, thử một lần đặt chân bước xuống, chúng ta sẽ chạm phải vô số vấn đề, có vấn đề tuy tầm thường nhưng lắm lúc chúng ta sai lầm trong cách nhìn và hiểu (Kiến Hoặc) mà nếu không được lý giài thì sẽ giữ mãi cái sai lầm đó (TƯ Hoặc) là điều cũng dễ thấy.

                 Vâng ! Vấn đề “Cúng Cô Hồn

 

  Dương Kinh Thành

 

 

------------------------------------------------------------------------------------------------

(*) Ba đêm hát Bội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2019(Xem: 6992)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8337)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16578)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8547)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6440)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5608)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7202)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7221)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
06/05/2019(Xem: 7820)
Được đăng trong Advice from Lama Zopa Rinpoche, Lama Zopa Rinpoche News and Advice. Trong khóa thiền lamrim dài tháng tại Tu Viện Kopan năm 2017, Lama Zopa Rinpoche đã dạy về nghiệp, giảng giải một vần kệ từ Bodhicharyavatara (Hướng Dẫn Về Bồ Tát Hạnh) của ngài Tịch Thiên (Shantideva), đạo sư Phật giáo vĩ đại vào thế ký thứ 8 của Ấn Độ. Đây là những điều Rinpoche đã dạy: Tác phẩm Bodhicharyavatara có đề cập rằng “Trong quá khứ, tôi đã hãm hại những chúng sanh khác như thế, vì vậy nên việc chúng sanh hại tôi là xứng đáng. Đối với tôi thì việc nhận lãnh sự hãm hại này là xứng đáng.”.
06/05/2019(Xem: 6099)
Bỏ lại sau lưng những cung bậc thị phi đời thường, lang thang vân du tìm đến những thắng tích đã phế bỏ từ lâu qua bao nhiêu cuộc thăng trầm nhung nhớ. Tôi cùng phái đoàn Phật tử thuộc Đạo Tràng Liên Tịnh Nguyện, tìm về quê hương Tuyên Quang, nằm ở phía Tây Bắc, tham quan một số điển tại Thủy Điện Na Hang, trong đó ta tìm về chiêm ngưỡng vẻ đẹp đất trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]