Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội

07/08/201620:29(Xem: 11102)
“ Cúng Cô Hồn “ Nhìn Từ Cửa Sổ Xã Hội
“ CÚNG CÔ HỒN “
 NHÌN TỪ CỬA SỔ XÃ HỘI
Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
 Tháng bảy ngày rằm  xá tội vong nhân.
 ( ca dao)
cung-co-hon-1-man-cung-don-gian

             Trước đây, nhớ mùa Vu lan 2548, khi nhận lời viết bài cho một tạp chí Phật giáo, vị  thầy tổng biên tập có yêu cầu tôi là làm sao đừng nói những điều  người khác đã thường hay nói hoặc những việc  quá cũ để tránh bị trùng lắp, được nhắc đi nhắc lại nhiểu lần , đã trở thành điệp khúc muôn thưở. Nó giống như căn bệnh cố hữu của không ít vị  thầy là hay giảng những gì mình thích mà người khác đã  biết, dù bản thân không  phài là một giảng sư! Tôi chỉ ậm ừ cho qua vì biết  chắc chắn rằng tôi sẽ vẫn phải làm như thế !Không phải không có đề tài để viết, nhưng tự trong thâm tâm vẫn cứ thấy những vấn đề mình  sẽ nêu ra đây đúng là rất cũ, nhưng cuộc sống bên ngoài cửa sổ xã hội kia, khi bước ra nhìn chung quanh vẫn cuồn cuộn những điều tuy rất cũ ấy với cái nhìn có quán xét tư lương, thì nó  lại rất mới, mới liên tục như  trong mỗi tế bào thân thể chúng ta từng sát na thay đổi biết bao lần. Vì vậy bài viết này vẫn không đi ngoài  cơn lốc ấy, có nghĩa vẫn sẽ là một  chuyện rất...cũ !

                     Có một thời gian dài, các phương tiện truyền thông tuyên truyền lên án việc “cúng cô hồn” với rất nhiều  lý do  mang nặng  căn bệnh thiên kiến. Người ta dựa vào hình thức cúng trong  dân gian gọi là “cúng giựt dàn”, “cúng cô hồn” hay “cúng rằm tháng bảy” v...v..rồi thảy tiền cho trẻ con lượm, hoặc  tranh nhau giựt đồ cúng. Thế mới là “cúng cô hồn”! Đó là lý do  để  kích bác;   nào là  khinh miệt trẻ em (ý nói  nghèo đói phài giành giựt mà ăn), và  những thức ăn như khoai, bắp,  cóc, đậu, mía, bánh bò ... bị rơi vãi trong quá trình  “giựt” ấy thì cho rằng lãng phí và khi không xem trọng  của cài xã hội của  người làm ra nó! v..v... và v..v...

                   Chúng ta không trách họ sao chẵng tìm hiểu tường tận ý nghĩa “cái sự cúng kỳ lạ” ấy, và tại sao cá nhân, nhà nhà, tất nhiên cũng không thiếu các cơ quan xí nghiệp, nhà máy (ban đầu  phần đông ở lãnh vực tư nhân) cũng đầu phài cúng như vậy, nấu có điều kiện. nhưng chúng ta tiếc cho họ là tại sao ngay lúc chứng kiến những cảnh tượng “trái tai gai mắt” ấy mà không dừng lại, vào thẳng nhà  người cúng, ngăn càn lại và hỏi tại sai phải cúng như vậy? Còn nữa, đã nhả nhà, người người cúng cô hồn, mà mỗi chợ, mỗi xóm ấp thậm chí mỗi bác tài xế lái xe cũng đều làm như thế mỗi khi đến rằm tháng bảy hàng năm? Không ai bắt buộc ai phải cúng, người có tiền thì có mâm cúng đầy đủ, người  eo hẹp thì một vài cái bánh, chén cháo loãng  trước sân nhà cũng ấm lòng  nghĩa tình  mùa mưa ngâu tháng bảy. Như vậy, “cái sự cúng kỳ lạ” ấy nghiễm nhiên đã trở thành  tập quán cộng đồng nằm trong  một góc văn hóa sống của người Việt từ ngàn xưa. Có người lấy làm khó chịu trước  việc này mà trách móc tại sao cúng  cô hồn sao không cúng ở chùa, đình làng mà lại cúng ở chợ, ở cơ quan, xí nghiệp vá cả  các nhà dân, từng khu xóm ấp!
cung-co-hon-2-man-cung-tuong-doi

                     Nhớ xưa kia, có một lễ hội mang tên “Đổ Giàn” của làng võ An Thái, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định, ngày nay đã được các cấp chính quyền sở tại cho phục dựng và tổ chức lại  hằng năm nhân ngày rằm tháng bảy âm lịch. Chính câu ca dao xưa đã thôi thúc trách nhiệm tỉnh Bình Định cho phục hồi lễ hội độc đáo này :

                   Đồn rằng An Thái, Chùa Bà

                  Làm chay, hát bội đông đà quá đông

                  Đàn bà cho chí đàn ông

                 Xem xong “ba ngọ”(*) lại trông đỗ giàn.

                   Tự hào về vùng đất võ An Nhơn của mình ( Trai An Nhơn, gái An Vinh ) hoặc Roi Thuận Truyền, Quyền An Thái ) nên có bên cạnh một lễ hội “Đỗ Giàn” như vậy càng mang thêm ý nghĩa giàu truyền thống nhân văn, trong đó ngàoi  tiêu chí tưởng nhớ côn ơn  các bậc tiền hiền, giáo dục  tinh thần uống nước nhớ nguồn cho mai sai, còn có  thêm ý nghĩa thắt chặt thêm những mối tương duyên, gắn kết nghĩa tình  keo sơn như nhất  với nhau.

                  Tất nhiên  có được  như vậy là  nhờ vào  tinh thần hai ngàn năm Phật giáo VN đã từng bước thắm được vào lối sống, cách sồng xã hội, nhưng bài viết này xin không nói nhiều đến ý nghĩa rằm tháng bảy hay tục lệ “cúng cô hồn” có liên quan  hay ảnh hưởng tinh thần nhà Phật như thế nào, mà chỉ muốn nhấn mạnh  việc ”cúng cô hồn” đã trở thành tập tục -lễ hội dân gian, mang  tính xã hội rất cao. và như thế đã trở thành tài sản “|phi vật thể” quý giá của dân tộc từ rất lâu đời. Chính yếu tố  cộng đồng này này mà “cúng cô hồn” phải cúng ở những nơi công cộng, bên vệ đường, bến sông, đầu chợ.v...v.. và nếu ở tư gia thì nhất thiết phải là ở trước sân. Hướng đến thế giới của người  đã mất, để tưởng nhớ vá chia sớt ấm lạnh cho họ đó là  tinh thần Đại Hùng Lực, Đại Từ Bi to lớn.  Trong thế giới người đà mất ấy vì  nghiệp dĩ vươn mang, khó siêu thoát nên còn vất vưỡng  đó đây chờ  ngày giờ thọ nghiệp nên mới gọi là “cô hồn” hoặc “oan hồn uổng tử” hay “ cô hồn các đản”. Oai linh chư Phật, Bồ Tát  hay những  Long Thần Hộ Pháp khiến những   cô hồn này rất  sợ không dám  đến gần  con người; do đó  Bồ Tát Quán Thế Âm  dùng  hiện thân Đại Sĩ của mình  thành Tiêu Diện để thống lỉnh họ  trên bước đường vất vưỡng nhân ngày “xá tội vong nhân” hằng năm, tiếp nhận từ  tấm lòng Từ Bi nơi con người một giọt nước giài oan, một vật thí ăn cho đỡ lòng tháng ngày vất vưởng.

                        Đến đây, có một điều không thể không  nhắc đến là việc “cúng cô hồn “ như vậy họ có ăn được hay không ! Trước hết có lẽ chúng ta  nên  nhấn mạnh đến tinh thần của  thế giới Hoa Nghiêm  là hãy nhìn và hiểu trong  nhận thức chớ không nên bị mê mờ trong  nhận định theo chiều hưpớng thực dụng đơn điệu. Bởi vì chỉ có cụm từ “ cúng có ăn được không” đã ghì chặt tư duy, quanh quẩn miệng chén của quan niệm thực dụng tội nghiệp, khó có cơ hội thoát ra, ghì chặt  vỏ bọc vô minh khó có cơ hội  thóat ra.  Nhớ lại từ hơn hai trăm năm  trước, khi đất nước ta  nghiêng ngửa bởi ách  nô vong , văn hóa  và bản sắc dân tộc đôi phen đứng bên bờ  hủy họai bởi làn sóng thực dụng, duy ý chí của phương diện vật lý  xâm lấn. Con người muốn bay khỏi mặt đất phải gắn vào lưng đôi cánh của  loài điểu thú. Vì bị đè nặng như vậy cho nên  khó có thể hiểu được  nhân vật Tôn Ngộ Không của cụ Ngô Thừa Ân ( 1500(?)- 1581) với 72 phép thần thông đi mây về gió  như thế nào chứ chưa nói đến nhiều  chuyện ẩn dụ khác! Ông Bụt trong cổ tích, cô tiên trong kho tàng  văn học  cổ  Việt Nam, hay những  con người  có sức mạnh thần thánh, bay về trời v...v...có ai bay lên khỏi mặt đất mà phải gắn đôi cánh chim bao giờ ?
cung-co-hon-3

                     Chính lối nhìn và hiểu bằng cặp mắt thực dụng nong cạn như vậy đã đầy con người  xa rời nguồn gốc, Tổ Tiên, xem thường nơi mình cắt rốn chôn nhao, thậm chí dễ dàng phản bội non sông đất nước, đến mức không còn biết phân biệt phải trái. Câu ca dao xưa ông bà mình lên án thành phần bất hiếu, vô nghì với mẹ cha cũng vì vậy mà  bị hiểu theo  tinh thần thực dụng, nghèo  nhận thức rất đáng thương“Sống thời chẵng chịu cho ăn/ chết thời  cúng tế làm văn tế ruồi”! Để rồi có lẽ chính những lối  “suy tư” lệch lạc này cứ ngày càng bổ sung vào đội ngũ “oan hồn ưổng tử” để ngày rằm tháng bày, “cúng cô hồn” hàng năm mãi còn ?

                       Chúng ta đừng quên ở phương Tây, cũng có lễ hội Halloween ( All Hollows’ Eve) diễn ra  cuối tháng 10 đầu tháng 11 dương lịch hằng năm. Một lễ hội nặng  về Gia Tô giáo. Theo Wikipedia thì đây là  tam nhật mùa các thánh (Allhallowtide) mùa tưởng nhớ các thánh và các tín dồ Gia tô tử đạo. Việc hóa trang  đeo mặt nạ  để trêu chọc và thách đố thần chết. Bên cạnh đó việc hóa trang mặt nạ chủ yếu dành cho cac em bé  thiếu nhi đến gõ cửa từng nhà xin thức ăn, kèn trống, lo ó náo động suốt đêm,  một hình thức mang rất đậm dáng vấp của một loại “cô hồn” ở phương Đông mà chúng ta đang nói đến, người có óc khôi hài  thì chỉ đích danh đó là “cô hồn sống”!

                      Trong thế giới của nhận thức, chuyện  cúng có ăn được hay không,  không thành vấn đề bận tâm, có chăng là kiến tạo được tinh thần Từ bi, lòng tương thân tương ái cao độ, vượt qua biên giới của sự sống chết, làm biên độ giáo dục vững chắc cho chính xã hội đương thời. Nhiều bậc giảng sư ngày trước đã chỉ rõ cho chúng ta thấy Từ bi khác với Bái Ái hay Tình Thương như thế nào. Nói  dễ hiểu là Từ bi được ví như ánh sáng mặt trời rọi chiếu  khắp nơi, không phân biệt  hàn sang, giàu nghèo. Còn Bác ái chỉ là ngọn đèn phin  nằm trong tay  tham muốn đối tượng , mục đích của người sử dụng. Đó là Ái Kiến không hơn không kém. Vì thế  hai  từ Từ Bi hiện nay đã được sử dụng  rộng rải, không còn là của riêng Phật giáo, nhiều nơi khác đã dùng chữ Từ Bi , chọn ánh sáng mặt trời thay vì ánh đèn pin nhỏ mọn và ích kỷ.

                        Ở trong mỗi ngôi chùa  thì không đợi đến rằm tháng báy mới “cúng cô hồn” mà mỗi ngày vào buổi xế chiều đều có các thời cúng thí thực đều đặn. Lớn hơn  thì trong các ngày lễ lớn quan trọng  còn có  lễ Trai Đàn Chẩn tế  quy mô. các nghi thức Phật giáo mỗi vùng miền  có khác nhau nhưng tựu trung vẫn là   dựa vào oai thấn Tiêu Diện Đại Sỉ, triệu thỉnh các vong linh để mong cầu giài thoát cho tất cà. Đến với những  cuội lễ này chúng ta dễ dàng cảm nhận giữa hai cõi Âm-Dương bến bờ nào có bao xa! Cũing có thể, qua đó, đôi khi chính mình lầm lẫn giữa ta và “cô hồn” ai là ai ! Vả cũng ở đó  bạn sẽ hiểu thêm câu thơ trong văn tế thập loại chúing sanh của cụ Tiên điền Nguyễn Du ( 1766 - 1820 ) có đoạn : “Ai đến đây dưới trtên ngồi lại/ Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu/ Phép thiêng biến ít thành nhiểu/ Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh..” Rất trùng hợp với ý thơ triết lý của thi hào  Ấn Độ Rabindranath Tagore ( 1861 - 1941 )” Trong sự sống thì nhiều biến thành một/ Trong cái chết thì một biến thành nhiều”.

                         Như vậy có thể thấy, việc “cúng cô hồn” mang tính  xã hỗi rất lớn, kết nối được tình thương giữa người và người, giữa hai bờ sống chết. Kiến tạo nê tình đoàn kết nhằm hước đến một cuộc sống hoàn mỹ và hoàn thiện hơn. Vậy chớp nên đem  cái  nhận thức hạn hẹp, biên kiến của mình để đánh giá  ý nghĩa cao đẹp của tập tục “cúng cô hồn” ấy  của người dân Việt chúng ta.

                        Ở một góc hẹp khác của mặt bằng xã hội, có những sự thật trần trụi như muốn vỗ đôm đốp vào mặt chúng ta buộc phải nhìn  và suy gẫm, cho dù có muốn tin là sự thật hay không. Trong cuộc thi viết  mang tên “ Sài gòn- TP.Hồ Chí Minh Kỷ Niệm Không Quên”do báo Tuổi Trẻ tổ chức năm 2005, anh Thiện Nhân, một nhân chứng sống của cát bụi lầm than giữa đất  Sài gòn ngày lang bạt cơ nhỡ, đã có bài viết mang tên cộc lốc“Cúng Cô Hồn” , bài đã đạt giải khuyến khích và đăng trên báo này ngày 02/03/2005. Nôi dung bài viết ấy tác giả kể về tháng ngày  đói  khổ, tìm  sự sống  mà  mùa “cúng cô hồn”  hàng năm giúp anh no đủ  nữa tháng ( “cúng cô hồn” ở tư gia chỉ được bắt đầu từ  sau ngày rằm tháng bảy âm lịch cho đến hết tháng). Hết nhà này tới nhà khác, anh và đám bạn lang thang  no đủ “ nhờ  những vật phẩm ”cúng cô hồn “ ấy   giữa đất Sài thành hoa lệ này.  Sau này khi vượt khó vươn lên, có cuộc sống đủ đầy, hằng năm anh vẫn “cúng cô hồn” ngay trước cửa nhà mình và bố thi lương thực cho người  nghèo như để  nhớ ơn năm xưa chính những  khúc mía, bánh tép, bánh quy, đậu phộng ‘cúng cô hồn” giúp anh no lòng đỡ dạ của những người  Sài gòn năm xưa.
Cung-co-hon-4-man-cung-cua-gian-hang-ven-duong

                    Dòng sau cùng bài dự thi, anh Thiện Nhân viết” Giờ đây, mỗi năm cứ đến mùa Vu Lan, lẫn trong hương khói tôi như thấy cha mẹ mình hiện về. Cảm thương cho những thân phận cơ nhỡ. Người Sài gòn luôn nhớ ‘cúng cô hồn” cho trẻ con được bữa ăn ngon. Tôi cũng bày biện cúng mà nghe mặn đắng trên môi dòng nước mắt hôm nào kiếm ăn giữa xứ người. Sài gòn không không thiếu những tấm lòng, có khi chỉa qua vài cái bánh trên mâm cúng như một thói lệ  xa xưa còn truyền lại../.”

                  Trên mặt bằng xã hội, thử một lần đặt chân bước xuống, chúng ta sẽ chạm phải vô số vấn đề, có vấn đề tuy tầm thường nhưng lắm lúc chúng ta sai lầm trong cách nhìn và hiểu (Kiến Hoặc) mà nếu không được lý giài thì sẽ giữ mãi cái sai lầm đó (TƯ Hoặc) là điều cũng dễ thấy.

                 Vâng ! Vấn đề “Cúng Cô Hồn

 

  Dương Kinh Thành

 

 

------------------------------------------------------------------------------------------------

(*) Ba đêm hát Bội.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5092)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6967)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]