Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Việt tị nạn Đức Quốc đang khóc

19/07/201606:17(Xem: 11450)
Người Việt tị nạn Đức Quốc đang khóc
Dr. Rupert Neudeck-5
Người Việt tị nạn Đức Quốc đang khóc!
Một quả tim nhân ái vừa ngừng đập!
Dr. Rupert Neudeck (14.5.1939 - 31.5.2016)
Nguyên Hạnh HTD 



Ông ra đi đã để lại một nỗi niềm xúc động trong trái tim tôi bởi vì nếu không có Ông, con trai tôi đã nằm trong bụng cá từ lâu rồi. Gia đình tôi vẫn nhớ ơn Ông đời đời nên làm sao chúng tôi không khỏi bàng hoàng đau đớn khi hay tin Ông đã lìa cõi trần! 

Vào cuối thập niên 1970, khi người Việt Nam vượt biển trốn thoát chế độ Cộng Sản, những vụ đắm tàu, cướp biển, tấn công, hảm hiếp người di tản và tàu nhỏ chở thuyền nhân bị xua đuổi không cho vào lãnh hải của họ. Sự việc động lòng nhân đạo của một người Đức là Tiến Sĩ Rupert Neudeck, Ông kêu gọi chính quyền Đức, cộng đồng xã hội, tôn giáo, các thân nhân, bằng hữu hãy cứu giúp những thuyền nhân Việt Nam đang tuyệt vọng trên biển cả như thuyền hết xăng dầu, lương thực, chết máy, cướp bóc, v.v... 

Khi bị nhà cầm quyền từ chối, Ông không nản lòng mà đã cầm cố ngôi nhà của mình, kêu gọi bạn bè, thân nhân góp tiền của để đóng thuyền ra khơi cứu người Việt Nam. Chỉ ba ngày kêu gọi, người Đức đã hưởng ứng đóng góp đến 1,3 triệu Mark ( tiền Đức thời bấy giờ ) để thuê chiếc tàu CAP ANAMUR đầu tiên ra khơi vào ngày 9.8.1979 với sứ mệnh cao cả là cứu vớt người Việt Nam gặp nguy khốn trên biển Đông. Tiếp theo thêm hai chiếc CAP NAMUR nữa. 

Trong thời gian 7 năm hoạt động (1979- 1986) Tổ chức CAP ANAMUR đã cứu vớt được 11.300 người vượt biên trên 223 chiếc ghe và hầu hết được định cư tại nước Đức. Ông cùng thân hữu đã thuyết phục thành công chính quyền Đức cho thuyền nhân Việt Nam được nhập cư vào nước này." (Trích một phần từ bài " Chuyện về Tiến Sĩ Rupert Neudeck và tàu Cap Anamur cứu vớt người tị nạn Cộng Sản vượt biển (79-86) " của Anh Tri ngày 7.6. 2016. Nguồn: Internet.)

Dr. Rupert Neudeck-6

Nhờ tấm lòng nhân ái bao la của Ông mà con trai tôi được cứu sống. Lênh đênh vô vọng hơn ba ngày đêm trên biển cả hãi hùng trên chiếc ghe mong manh, đến khi nhìn được ánh sáng của con tàu CAP ANAMUR đang dần dần tiến tới, con tôi đã tạ ơn đức Quán Thế Âm ̣Bồ Tát. 

Con tôi vượt biên ngày 8. 4. 1981, được CAP ANAMUR vớt đêm 11. 4. 1981 lúc đang chờ chết. Đó là chuyến CAP ANAMUR 19, tổng cộng 466 người cho nên có tên gọi CAP ANAMUR 19/466. Các ghe kia được vớt ban ngày, tổng cộng 420 người, ghe con tôi được vớt vào ban đêm 46 người. Đúng ra là có một phụ nữ Việt Nam có bầu sắp sinh, trực thăng của CAP ANAMUR chở bà ta vào bệnh viện Singapore, trên đường đi thì gặp ghe của con tôi và vớt luôn. Như vậy, phải cám ơn cả người đàn bà đó vì sau khi đã vớt 8 ghe với 420 người, CAP ANAMUR nghĩ là đủ chuyến rồi và định đi vào bờ. Đến Singapore ngày 12.4.1981, họ không nhận, CAP ANAMUR quay mũi tàu trực chỉ đến Palawan - Phi luật Tân ngày 16.4.1981, qua ngày 4.11.1981 con tôi được định cư ở Đức (Frankfurt am Main). 

Không làm sao diễn tả hết nỗi vui mừng của gia đình tôi khi được tin con mình đã được cứu sống! Cho con đi vượt biên bao nhiêu lần, tù tội cũng có. Mỗi lần con ra khỏi nhà, tôi tưởng như mình chết đi được, cuối cùng đến lần vượt biên thứ 8 mới được CAP ANAMUR vớt. Thật không còn nỗi vui mừng nào so sánh được! Vậy là nhờ Ông, chúng tôi đã thoát khỏi một chế độ Cộng Sản vô nhân mặc dù phải đứt ruột lìa xa quê hương và có thể trả giá bằng mạng sống của mình.

Dr. Rupert Neudeck-7

Chúng tôi đã dùng nước sông của họ - của nước Đức - để tưới tẩm, dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi, tôi vẫn xúc động khi nghe bài Quốc ca ngày xưa, lời ca nhiệt huyết như không phát ra từ môi mà cất lên từ trái tim mọi người. Nhưng tôi cũng không ngồi nhìn đất nước này, dân tộc này với một ánh mắt hờ hững dửng dưng, một thái độ vô ơn rẻ rúng. Tôi đã dạy các con cùng tôi nhận nơi này làm quê hương, hãy đem tất cả khả năng lao động hay học vấn của mình đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia này. 

Trong hơn 20 năm ở nước Đức, tôi đã được gặp Ông ba lần: hai lần ở München - thành phố tôi đang ở - và một lần tại hải cảng Hamburg, nhân dịp khánh thành đài tưởng niệm thuyền nhân. Hai lần ở München, tôi được vinh dự đại diện tặng hoa cho Ông. Khi bắt tay Ông tôi đã nói Ông là đại ân nhân của gia đình tôi, Con trai tôi đã được Ông cứu vớt và tôi rất sung sướng được ngỏ lời trực tiếp cám ơn Ông, một ân nhân vĩ đại của cộng đồng người Việt tại Đức. Tôi vẫn nhớ mãi câu nói đầy ân tình của Ông khi tôi trao tặng bó hoa: " Tôi vui với thành quả mình đã làm, cộng đồng người Việt đã thành công rất nhiều." 

Tin Ông mất đã làm chấn động cả cộng đồng. Người Việt khắp nơi trên nước Đức đã xôn xao kêu gọi nhau đến tận thành phố Köln để góp lời cầu nguyện và cũng như một hình thức đưa tiễn Ông đến nơi an nghỉ cuối cùng. Gọi là báo đáp ân nghĩa trong muôn một nên hàng ngàn người đã không quản ngại đường sá xa xôi khắp nơi lũ lượt về. 

Thánh đường St. Aposteln (am Neumark- Köln) đông nghẹt. Tất cả đều trong trang phục tang lễ màu đen mọi tấm lòng đều dành cho Ông tràn đầy thương tiếc ngậm ngùi. Với tôi, sự việc ý nghĩa nhất trong buổi lễ là phần phát biểu phân ưu của một vị bác sĩ người Việt. Ngày được CAP ANAMUR vớt, bác sĩ này mới lên 4, vậy mà không ngờ sau này trở thành người mổ tim cho Tiến sĩ Rupert Neudeck. Đó là bác sĩ Nguyễn đình Quang. Ôi! Trên cuộc đời này vẫn còn có những sự trùng hợp thật nhiệm mầu và cao đẹp quá! 

Bà Neudeck cũng đã ngỏ lời trong lá thư cám ơn: " Các bạn vẫn luôn luôn duy trì bảo tồn nền văn hóa Việt Nam của các bạn và các bạn cũng là những người đã mang lại sự phong phú tuyệt vời cho xã hội Đức này", và trong phần trích từ Kinh Thánh, có câu bà nhắn gởi Ông thật cảm động: "Lòng nhân hậu và tình thương của Người sẽ theo tôi suốt cuộc đời". 

Nỗi mất mát nào lại không đớn đau nhưng hình ảnh cả ngàn người Việt Nam từ muôn phương kéo về cũng đã làm ấm lòng bà Neudeck rất nhiều và đó là niềm an ủi cũng như sự hãnh diện cho những ngày đơn chiếc còn lại. Thiết nghĩ cũng nên có vài dòng vinh danh người phụ nữ này: Bà Christel Neudeck, không phải là người đàn bà đứng sau lưng sự thành công của chồng mà bà luôn sóng vai đồng hành cùng chồng trong công việc cố vấn, điều hành mọi công cuộc từ thiện. 

Do đó giải thưởng ERICH FROMM ( 2016) đã dành tặng cho cả hai vợ chồng Ông Bà Christel và Rupert Neudeck ( Theo Nguyễn Hữu Huấn ( Hamburg ) trong số báo Viên Giác 213 ). Luân lý Việt Nam thường khuyên con cháu nên giàu lòng nhân ái qua câu ca dao: " Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng." (Là khuyên con người nên biết thương người khác, nhưng cũng là người trong nước.) Trong triết lý Đông phương, ta cũng thường nghe nhắc câu: " Vua nước Sở mất cung thì người nước Sở được." (Khuyên con người nên dễ dãi chia sẻ vật chất cho người khác. Khác, nhưng cũng là người khác trong nước.) Đằng này Tiến sĩ Rupert Neudeck với người tị nạn Việt Nam thật hoàn toàn xa lạ. Lòng nhân ái của Ông mới thật quá bao la và thiêng liêng cao cả! Thế gian thường tin là Thượng đế ban sự sống và quyết định cái chết cho con người nhưng người trần mắt thịt không dễ thấy. Còn Tiến sĩ Rupert Neudeck quả thật là Ông đã: " Ban sự sống và cả cách sống tốt cho nhiều người "! 

Thật đáng tôn vinh! Vĩnh biệt Tiến sĩ Rupert Neudeck! Ông đã ra đi! Nhưng hình ảnh Ông vẫn mãi mãi sáng ngời, rạng rỡ ngự trị trên cao, trên những con tàu CAP ANAMUR, xứng đáng được mệnh danh: " Những con tàu thần thoại". Phong ba, bão táp, tiếng gầm thét của biển cả cũng không thể át nổi thanh danh một đời người đã xả thân cho những công cuộc từ thiện trên mọi lãnh vực nhất là trong công cuộc cứu vớt thuyền nhân Việt Nam vượt biển tìm chân trời tự do. Trùng dương mênh mông, bát ngát, sâu rộng, vô bờ cũng không thể sánh bằng sự bao la, thăm thẳm, ngút ngàn của một tấm lòng nhân ái, đôn hậu của Ông. Một tấm lòng với tình người đối với con người - Hơn thế nữa với cả nhân loại bằng cái tâm không phân biệt. Ông! Tiến sĩ Rupert Neudeck! Xứng đáng ra đi về nơi thanh thản và Ông, đã trở thành bất tử trong lòng người tị nạn Việt Nam chúng tôi. 

Tháng 6/2016 
Nguyên Hạnh HTD
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4725)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5035)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4527)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3750)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7573)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4749)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6191)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5337)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12177)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5368)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]