Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14

21/06/201608:08(Xem: 11796)
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14
Thích Liễu Nguyên thuật lại
Thuyet-giang-2
Nhân Duyên
Một nhân duyên lớn nhân dịp chùa Điều Ngự tổ chức khánh thành chánh điện chùa, ban tổ chức HT.Thích Viên Lý đã mời Ngài Dalai Dama Thứ 14 giảng pháp cho đại chúng trong 2 ngày thứ 7 và Chủ Nhật ngày 18 và 19 tháng 06 năm 2016. Đây là một thiện duyên cho cộng đồng người Việt hải ngoại mà đặc biệt là người Việt tại Hoa Kỳ.
Theo tin tức thì mấy ngày trước Ngài đã có cuộc gặp với Tổng Thống Mỹ Brack Obama. Khoá Giảng vào ngày 18 là đúng 9 giờ sáng, mọi người muốn tham dự thì phải chuẩn bị đi từ rất sớm vì số người quá đông mà chỗ ngồi thì lại giới hạn, cộng thêm an ninh rất chặt chẽ để bảo vệ Ngài cùng tất cả mọi người.  Theo ước tính thì từ 10 ngàn người đến 15 ngàn người.
Đến Đúng Giờ
Cũng vì sợ trễ nên Liễu Nguyên đã dậy chuẩn bị từ rất sớm, 4 giờ sáng đã dậy chiên cơm ăn sáng và 6 giờ sáng thì bắt đầu xuất phát chùa từ Việt Nam Los Angeles về chùa Điều Ngự cùng đi có với HT. Thích Như Minh và hai Phật Tử: Đức Chân Châu và Anh Minh Nhật làm tài xế. Do sáng sớm thứ 7 đường Cali không kẹt xe nên đến được khá sớm, vào lúc 7 giờ 45 phút. Một điều rất ngạc nhiên là vào thời điểm đó số người đã tấp nập. Ai đi xe cá nhân điều phải đậu xe từ mấy lock đường cách đó rất xa, khoảng gần 2 km. Còn ai muốn đậu trong bãi xe cách xa đó thì xe ban tổ chức đón xe bus đưa đến 10 phút 1 lượt. Rất đông cảnh sát, an ninh làm việc để bảo vệ an toàn cho mọi người.
Thuyet-giang-1
Được drop up ngay sau đoàn người get line dài khoảng gần 1 km, Liễu Nguyên với Hoà Thượng cứ vậy get line tuần tự sau đoàn người mà không biết quý Thầy thì sẽ có lối đi riêng. Cũng nhờ thấy có một đoàn quý Thầy người Srilanka họ đi riêng nên đã nhập vào đi chung và đến cổng an ninh thì mỗi Thầy được phát 1 cái thẻ Tăng Đoàn và được tuần tự kiểm tra an ninh nghiêm ngặt rồi mới vào cổng đến trước sân chùa là chỗ Ngài giảng pháp. Nếu đi trễ một tí thì chắc sẽ không vào được. Vì trước lúc 9 giờ thì chỗ ngồi khoảng 10 ngàn người bên trong đã kính hết chỗ. Rất đông người đến vì hết chỗ nên cảnh sát an ninh đã không cho vào nữa, cũng ước tính khoảng 2 ngàn người.
Ngồi Dưới Cái Nóng Mùa Hè
Sáng thứ 7 mùa hè trời rất nóng, theo nhiệt độ báo lúc đó thì 84 độ F có khi lên 90 độ F. Nhưng ai ai cũng háo hức được diện kiến đảnh lễ và được nghe Ngài thuyết giảng Phật Pháp. Quý Hoà Thượng được ban tổ chức xếp ngồi trên tiền đường hai bên Ngài, còn chư Tăng Ni trẻ được xếp ngồi dưới sân đối diện Ngài. Liễu Nguyên may mắn đi sớm được xếp hàng ghế đầu nên được nhìn Ngài rất rõ. Trong lúc Ngài thuyết giảng Ngài rất để ý đến thánh chúng ngồi dưới nắng nóng nên Ngài cứ hỏi quý thầy quý vị có nóng lắm không, vì trời rất nóng mà không có mái che tất cả Chư Tăng, Phật Tử Quan Khánh, rất nhiều Nghị Viên các thành phố lân cận… đều ngồi dưới cái nóng mùa hè. Với độ tuổi 81 Ngài cũng cảm nhận cái nóng đó trong trái tim Từ Bi, Ngài dạy đại chúng hãy đội mũ, dù, thậm chí ai không có thì lấy tay áo hoặc sách báo che lên đầu cho đỡ nóng để lắng nghe trọn buổi thuyết giảng trong vòng 2 tiếng. Tăng Ni cũng may mắn được ban tổ chức phát cho 3 vị chung 1 cái dù nên mới đỡ nóng để nghe Ngài thuyết pháp.
Bài Thuyết Pháp Hai Tiếng
Với vỏn vẹn hai tiếng đồng hồ, Ngài thuyết giảng cho mọi tầng lớp, nhiều căn cơ khác nhau cùng hiểu rõ về Phật pháp không phải là đơn giản mà chỉ có những biện tài của các Vị Bồ Tát mới làm được. Đức Dalai Dama đã làm được việc đó, thì ắt phải là một vị Bồ Tát sống. Ngài dùng Trí Tụệ và Từ Bi để thuyết giảng nên như một trận mưa lớn mà muôn loài cây cỏ tuỳ theo sức của mình mà hấp thu đủ để sống an lành. Theo tiểu sử của Ngài thì Ngài đã hoàn thành Tiến Sỹ từ khi tuổi rất trẻ và đã được đào tạo rất đặc biệt, nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển rất sâu đặc biệt là đã học hết tất cả các bộ luận nổi tiếng của các Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Pháp Xứng…
Chỉ hai tiếng đồng hồ mà Ngài đã thâu tóm lại tất cả giáo điển của Đức Phật thật hay, rõ ràng và thật mầu nhiệm.
Sau khi chào hỏi và cám ơn đại chúng, Ngài bắt đầu vào bài giảng với lời rằng: “ Tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều sanh ra cùng chung với thân con người và chết đi đều giống nhau”,  Liền đó Ngài nói về Khổ Đế mà tựu trung là 8 cái khổ mà con người ai ai cũng đều gánh chịu: 1. Sanh khổ, 2. Lão khổ, 3. Bệnh khổ, 4. Tử khổ, 5. Ái biệt ly khổ, 6. Cầu không được là khổ, 7. Oán thù gặp nhau là khổ, 8. Có thân ngũ uẩn nầy là khổ. 
Ngài dạy Đức Phật cũng có thân người như chúng ta, là một thái tử con vua Tịnh Phạn xưa thuộc Ân Độ cũng vì thấy rõ 8 điều khổ căn bản đó và muốn tìm chân lý để giải thoát khổ đau cho bản thân, con người và chúng sanh.
Ngài đã nhấn mạnh vào việc thiền định, đó là thiền quán tức phải tư duy sâu và đúng, và thiền chỉ là hãy tập trung vào đối tượng để thấy rõ đối tượng. Đức Phật cũng nhờ thiền định suốt 49 ngày đêm mới ngộ đạo tìm ra nguyên nhân khổ đau sanh tử luân hồi là do Tham, Sân, Si mà Tham Ái là nguồn gốc, gọi đây là Tập Đế. Ngài cũng nói Đức Phật cũng nhờ thiền định mà tìm ra Đạo Đế: 37 phẩm trợ đạo, ai tu tập theo thì sẽ thoát khổ đau sanh tử, được hạnh phúc giải thoát. Thế rồi Ngài nhấn mạnh rằng, sau khi đức Phật ngộ đạo đã thấy chân lý quá thâm sâu, Đức Phật sợ con người, chúng sanh khó mà lãnh hội nên nghĩ là sẽ Niết Bàn cùng chánh pháp. Nhưng rồi Đức Phật quán sát thấy có người sẽ tiếp nhận từng phần nhỏ của chánh pháp nên Đức Phật mới từ bi chia ra Chánh Pháp thành 3 thừa: là Thanh Văn thừa cho những ai tu tập Tứ Diệu Đế, Duyên Giác Thừa cho những ai tu tập Thập Nhị Nhân Duyên và Bồ Tát Đạo cho những ai tu tập Lục Độ Ba La Mật nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Ngài nói là chính đức Phật đã quán xét và tìm đến hoá độ 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, Những người mà đã cùng chung với Ngài tu 6 năm khổ hạnh trước đó. Trong lần chuyển pháp đầu tiên qua bài pháp Tứ Diệu Đế thì 5 anh em Kiều Trần Như chứng quả vị A La Hán. Từ đây Phật Pháp Tăng được hình thành. Kể từ đây ngoài Đức Phật đã có người biết được hạnh phúc của việc học, thọ trì thực hành theo Phật Pháp và đạt được hạnh Niết Bàn là Diệt Đế. Ngài nhấn mạnh rằng ngoài việc nguyên cứu tam tạng kinh điển phải thực hành theo thì mới có hạnh phúc, an lạc giải thoát. 
Tiếp đó Ngài nói đến lần chuyển pháp luân thứ 2 của đức Phật tại núi Linh Sơn qua Kinh Bát Nhã. Ngài nhấn mạnh kinh Bát Nhã rất thâm diệu mà cốt yếu là Từ Bi và Trí Tuệ, là nơi sanh ra chư Phật. Việc tu tập đầu tiên là phải thấy nhân vô ngã qua việc quán chiếu sâu thấy năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thuộc về thân là vô ngã. Kế đến quán thật sâu để thấy vạn pháp cũng vốn giả uyển vô ngã. Ngài nói các pháp không phải tự sanh ra độc lập riêng biệt mà do rất nhiều nhân duyên mà hình thành. Nó có thì có đó ai chấp chặt sai lầm thì liền đó sẽ khổ đau, phiền não sanh khởi. Vì bản chất nó là vô thường, duyên sanh vô ngã. Ngài nói rằng nếu suy xét cho cùng theo ngôn ngữ khoa học ngày nay gọi là vi lượng tử thì bên trong vốn trống không, nguyên lý nầy Ngài Long Thọ vị tổ thể kỷ thứ 2 bên Ấn Độ đã nói rất rõ và hôm nay khoa học mới thực nghiệm, Học Thuyết Ngài Long Thọ còn cao hơn một bậc là hãy ly hết thảy các tướng, chẳng có, chẳng không, mà cũng chẳng vừa có vừa không. Xả bỏ tất chấp, tất cả sự thấy biết giữa chủ thể và khách thể thì mới nhập vào cái bao la diệu dụng. Ngài nói Ngài đã từng gặp rất nhiều các nhà Khoa Học để luận bàn rất nhiều về điều nầy. Ngài cũng nói nếu muốn hiểu rõ được thì cần phải học sáu bộ luận của Ngài Long Thọ mà quan trọng nhất là bộ Trung Quán Luận, rồi học các bộ luận của Ngài Thế Thân mà quan trọng nhất là bộ Duy Thức Luận. Ngài cho ví dụ: Nếu có một màu xanh mà ta không dùng mắt nhìn thấy thì màu xanh cũng xem như tồn tại mà không tồn tại, chuyện nầy khoa học cũng đã công nhận mà trong Duy Thức còn vô số cái rất hay. Ngài nói môn Duy Thức và Kinh Hoa Nghiêm sẽ hợp với những sự tìm tòi của Khoa Học ngày nay và tương lai…Ngài nói rằng chính Ngài đã suốt 30 năm học hết Tam Tạng Kinh Điển và nhờ các Bộ Luận của các Bồ Tát Long Thọ, Thế Thân, Pháp Xứng…, Kim Cang Thừa nguồn góc Phật Giáo Tây Tạng, Ngài mới thấy được Phật Pháp. Nên Ngài khuyên thính chúng cũng nên như vậy và hãy phát khởi Tâm Bồ Đề cứu độ chúng sanh bằng cách liễu ngộ Phật Pháp và đi tìm chúng sanh để hoá độ như chính Đức Phật cũng đã đi tìm chúng sanh hoá độ sau khi đức Phật ngộ đạo.
Ngài cũng nói Đức Phật chuyển luân lần thứ 3 bằng việc dùng Mật Chú cho những ai thanh tịnh thì tiếp nhận tu tập để thẳng vào cảnh giới Phật đó là Pháp Hoa, Lăng Già, Kim Cang Thừa…
Trời vẫn cứ nóng nhưng dường như cả  thính chúng như được trở về với chánh Pháp khi đức Phật còn tại thế. Trong khi Ngài thuyết pháp cũng có rất nhiều người muốn đến chụp hình nên đã tiến đến quá gần Ngài khiến an ninh bảo vệ đã can thiệp không cho phép làm vậy. Thấy vậy Ngài nói rất từ bi rằng, không sao đâu, miễn rằng đừng làm ồn đến buổi thuyết pháp thì ngồi đâu cũng được. Thế rồi ngài thấy em bé 2 tuổi gần đó ngài vẫy tay chào và bảo hãy đến gần bên Ngài. Một điều xúc động hơn là một em bé tàn tật khoảng 4 tuổi hình như không đi, không, nói được mà chỉ nằm trên xe lăn, là con của một gia đình người Mỹ Trắng muốn được gần Ngài đễ được bình an. Ngài đã rất hoan hỷ nên an ninh cảnh sát đã bế nguyên cả xe lăn và em bé lên pháp toàn cận Ngài để em bé được nhìn Ngài và được Ngài cùng thính chúng cầu an.
Sau đó buổi thuyết pháp lại tiếp tục. Ngài nói rằng truyền thống Phật Pháp Đại Thừa, Nguyên Thuỷ, hay Kim Cang Thừa… Điều bắt nguồn từ Đức Phật do vì truyền thống xứ sở, quốc gia khác nhau nhưng đều được xây dựng trên Giới Định Tuệ và luôn lấy Từ Bi và Trí Tuệ để thực hành thiện pháp và đó cũng là hạnh phúc cho mình và người. Về Giới Luật thì 5 Trọng Giới luôn là căn bản và các giới luật khác cũng được khai triển thêm từ đó.
Ngài nhấn mạnh rất nhiều lần là muốn hiểu được Kinh Điển lời Phật Phật trong nhiều tạng Kinh Pali, Sankarit, Tây Tạng, Hán Tạng, Việt Tạng…thì cần phải đọc và nguyên cứu các Bộ Luận của các Bồ Tát sau thời Đức Phật như Bồ Tát Long Thọ, Bồ Tát Thế Thân, Pháp Xứng…. Vì các Tổ Sư Bồ Tát đó đã đọc hết kinh Phật đã hiểu, liễu ngộ nên đã giảng giải, để lại các bộ luận cho thế hệ chúng ta, nghiên cứu tu tập. Ngài nói Ngài cũng nhờ có thiện duyên mới đọc hết các Bộ Luận đó và rồi theo truyền thống Tây Tạng thì cùng nhau ngồi bàn luận Phật pháp. Việc luận bàn Phật Pháp cũng làm theo lời dạy của Đức Phật. Những người nghi ngờ Phật pháp sẽ đi tìm hiểu giải đáp và sớm ngộ rõ Phật pháp. Nên việc nghi ngờ và tìm câu trả lời là rất cần thiết. Ngài nói đạo Phật không phải chỉ tin rồi đến mà hãy đến và thực hành thấy hạnh phúc thì đó mới là chính mình thấy Phật qua việc chính mình làm việc Phật…
Ngài nói chúng ta cùng làm người, ai ai cũng khát khao hạnh phúc giải thoát và sự thật hạnh phúc có trong trái tim từ bi mà bất kỳ ai không kể tôn giáo nào nếu có trái tìm từ bi qua việc làm trí tuệ thì sẽ thấy hạnh phúc. Và ai ai cũng như vậy thì nhà nhà hạnh phúc, thế giới hoà bình hạnh phúc.
Ngài cũng kể câu chuyện lúc Ngài ghé qua Sanfan sico thấy nhiều người vô gia cư Ngài đã đãi một bữa ăn và cùng ăn chung thân mật vì tất cả chúng ta đều là con người. 
Kết thúc là một tràng pháo tay rất dài rất hoan hỷ của thính chúng, mà theo đúng nghi thức Phật giáo thì phải là đảnh lễ dưới chân Ngài, hoặc đi nhiễu quanh Ngài ba vòng hoặc bảy vòng từ phía trái qua phải, nhưng vì bối cảnh không gian không cho phép và trong số đông 15 ngàn người tham dự không chỉ Phật tử truyền thống của một quốc gia mà rất nhiều quốc gia và có rất nhiều tôn giáo khác cũng đến nghe pháp trong hoan hỷ.
Cũng vừa đúng 11 giờ, cái nóng gay gắt hơn và chắc ai cũng đói, nên Ngài mĩm cười khì khì với cái tuổi 81 mà luôn thật tươi như một Vị Bồ Tát Lớn Tuổi rồi nói rằng, ôi thật mừng đã hoàn thành, rất cám ơn mọi người đã lắng nghe mặc dù Tôi biết thời tiết rất nóng.
Tuy 2 tiếng ngắn ngủi với khác biệt ngôn ngữ, Ngài nói tiếng Anh hoặc tiếng Tây Tạng rồi được một Tỷ Kheo Ni dịch nhanh ra tiếng Việt và một Phật Tử dịch ra tiếng Anh nên nếu tính thì bài thuyết pháp chính thì Ngài dạy chỉ hơn 1 giờ đồng hồ mà đã thâu tóm toàn bộ giáo điển mà người lần đầu đến với Phật Pháp cũng sẽ hiểu và những ai đã từng nhiều năm tu học thì sẽ thấm nhuần hơn rất nhiều. Liễu Nguyên cũng được duyên lành nghe trực tiếp lần đầu cộng với gần 30 năm nguyên cứu tu học, chỉ mới đọc được mấy bộ Kinh Luận, hôm nay được Ngài giới thiệu và khuyên dạy tu tập, Ngài còn nói hạnh phúc của Ngài là được làm học trò nhỏ bé của Đức Phật Thích Ca thì con cũng hạnh phúc được làm học trò nhỏ bé của Ngài. Liễu Nguyên chỉ vắn tắt lại những gì nhớ được, chắc chắn còn nhiều ý hay mà Liễu Nguyên không nhớ nên mong quý vị hoan hỷ. Chắc rằng nhân duyên Phật Pháp còn mãi nên những cái Liễu Nguyên chưa nhớ sẽ gặp và nói tiếp trong tương lai.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2020(Xem: 7113)
Dù Đức Phật đã là một bậc Vô thượng chánh đẳng giác, nhưng Ngài cũng là một con người như bao nhiêu người khác nên không tránh khỏi nạn sanh lão bệnh tử trong đời này. Là một vị Sa-môn khiêm tốn, Đức Phật đã chọn nơi nhập diệt của mình ở một làng mạc xa xôi hẻo lánh, đó là làng Kushinagar, nơi có liên hệ mật thiết đến cuộc đời tu hành của Ngài trong một kiếp xa xưa. Tuy đã chuẩn bị như thế, nhưng những ngày tháng cuối cùng của Ngài vẫn là những ngày tháng làm việc không ngừng nghỉ. Mặc dù tuổi già sức yếu, nhưng Đức Phật không ngần ngại đi bộ trên những con đường chập chùng xa tắp, lên đèo xuống dốc, băng rừng vượt suối...
02/11/2020(Xem: 7022)
Hằng năm những người con Phật khắp nơi trên thế giới đều làm lễ cúng vía đức Bồ tát Quán Thế Âm thật trang nghiêm vào các ngày âm lịch: - Ngày 19/02 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm đản sinh. - Ngày 19/06 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm thành đạo. - Ngày 19/09 kỷ niệm ngày Bồ tát Quán thế Âm xuất gia. Vào Triều Lý tôn Phật giáo Quốc đạo, dùng chủ nghĩa: Từ Bi hiện thực, lý tưởng Bồ tát đạo làm kim chỉ nam, Quốc sách An dân kiện toàn trong mọi lĩnh vực:
02/11/2020(Xem: 5670)
Trong các đề tài trước, chúng ta đã thảo luận về bản đồ của các Phật tử ở Jepara, tỉnh Java, Indonesia. Tuy nhiên, những Phật tử “tồn tại” (ada) ở jepar, tỉnh Java ngày nay, theo các vị bô lão, chỉ sinh sôi và phát triển vào năm 1965. Vậy thì Phật giáo ở Jepara trước năm 1965 có còn dấu tích gì không? Từ quá khứ rất xa xưa trước khi Indonesia “tồn tại” các Vương quốc lớn đã chiến thắng ở quần đảo Nusantara. Jepara là một trong những trung tâm của Vương quốc đã từng chiến thắng. Vương quốc Kalingga thuộc Indonesia với Nữ hoàng Shima ở ngôi vua cai trị đất nước.
01/11/2020(Xem: 6359)
Chùa Tây Phương (Sùng Phúc Tự) ở huyện Thạch Thất thuộc Hà Tây cũ, nay là Hà Nội, chốn già lam thánh chúng còn lưu giữ đến 60 bức tượng cổ, đã trở thành bảo vật của chùa, và cũng là bảo vật quốc gia. Những pho tượng cổ này đều được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng, có tượng được tạc to hơn hình thể dáng vóc của người thường, và tất cả đều toát vẻ uy nghi thanh thoát...
01/11/2020(Xem: 5207)
Đại sư Tây Sơn (서산대사, 西山大師, 1520-1604), có đạo hiệu Thanh Hư Đường Tập (휴정휴정, 淸虛堂集) hay còn gọi là Đại sư Thanh Hư đường Hưu Tĩnh (청허당 휴정, 淸虛堂 休靜). Vị cao tăng thạc đức danh tiếng nhất Triều Tiên vào giữa cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, thuộc Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc. Cuộc đời của Ngài nổi bật qua công cuộc phát huy ánh sáng từ bi, trí tuệ, hùng lực, truyền bá tư tưởng tự do bình đẳng của đạo Phật, triết lý và biên soạn các tác phẩm Thiền tông.
31/10/2020(Xem: 4935)
Hòa thượng Kiribathgoda Gnānānanda Thero sinh ngày 1 tháng 7 năm 1961, vị tăng sĩ Phật giáo Sri Lanka, người kiến tạo Tu viện Phật giáo Mahamevnawa và Mạng lưới Truyền thông Shraddha. Ngài sinh ra trong một gia đình Thiên Chúa giáo, khi lên 6 tuổi cả gia đình Ngài đều quay về với đạo Tổ tiên Phật giáo. Năm 1979, vào ngày 26 tháng 3, 17 tuổi xuân, Ngài đến ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara, miền đông Sri Lanka, đảnh lễ cầu xin xuất gia với Đại lão Hòa thượng Dambagasare Sumedhankara Mahā Thero, Trưởng của Sri Kalyaniwansa Nikāya và là Trụ trì ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara vào thời điểm đó. Và thụ giáo học Phật pháp với Trưởng lão Hòa thượng Dikwelle Pannananda Thero tại ngôi già lam cổ tự Seruwila Mangala Raja Maha Vihara.
31/10/2020(Xem: 18809)
Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa Sư Bị (835-908) Vị Thiền Sư đặt nền móng cho Thiền Phái Pháp Nhãn Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng giảng từ 6.45am, Thứ Bảy, 31/10/2020 (15/09/Canh Tý) 🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️ Phật pháp trụ trì Huyền lão gia Tây thiên Đông độ diễn ma-ha Thường ngồi hành đạo Hiếp tôn giả Ít muốn khiêm cung lão thượng tòa Nghìn dặm mang thư toàn giấy trắng Vạn thiên hùng biện vẫn không ngoa Tài ba xuất chúng hàng long tượng Pháp hội nương nhờ đạo mật-la (Thơ tán thán công hạnh Thiền Sư Tông Nhất Huyền Sa của HT Hư Vân, do HT Minh Cảnh dịch) 💐🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼🌺🍀💐🌼 Múi giờ : pháp thoại của TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng (trong thời gian cách ly vì đại dịch Covid-19) về chư vị Tổ Sư Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam…) - 06: 45am (giờ Melbourne, Australia) - 12:45pm (giờ Cali, USA) - 03:45pm (giờ Montreal, Canada) - 09:45pm (giờ Paris, France) - 02:45am (giờ Saigon, Vietnam) 💐🌹🥀🌷🍀💐🌼🌸🏵️🌻🌼💮🍂🍁🌾🌱🌿🍃
31/10/2020(Xem: 4772)
Hội thảo Học thuật sẽ được tổ chức để Kỷ niệm 500 năm ngày sinh của Đại sư Tây Sơn (서산대사-西山大師, 1520-1604), người sẵn sàng quên mình vì nước, khi tổ quốc lâm nguy san hà nguy biến, khi triều đình liên tục bị đánh bại trong Chiến tranh Nhật-Hàn năm Nhâm Thìn (1592). Sự thiệt hại khủng khiếp trong cuộc chiến tranh này:
31/10/2020(Xem: 6179)
Hòa thượng họ Khổng (sau khi hoạt động Phật giáo Cứu quốc, do hoàn cảnh mới đổi thành họ Nguyễn) húy Hồng Hạnh, hiệu Vĩnh Đạt, thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, sinh năm Tân Hợi (1911), niên hiệu Duy Tân năm thứ 5, tại xã Mỹ Nhơn, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, trong một gia đình làm nghề nông sùng mộ đạo Phật. Hạt giống bồ đề khơi mầm, vườn hoa Bát nhã nở hoa, ấu niên 9 tuổi, những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa, ngài trở thành chú tiểu đệ tử của đại lão Thiền sư Khánh Thông, Tổ đình Bửu Sơn, xã Tân Thủy, huyện Ba Tri. Hòa thượng Bổn sư cho ngài thọ giới sa di vào ngày mùng Một tháng 07 năm Tân Dậu (1921) tại Bổn tự Bửu Sơn do bổn sư của ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
31/10/2020(Xem: 7914)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Kính chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Chưa lúc nào bản thân chúng tôi thấm thía Lý Duyên Sinh Phật dạy như lúc này. Quả thật..''Cái này sinh thì cái kia sinh'', chân lý này vận hành trong mọi sự vật và mọi sự kiện, bởi vậy một khi Dịch Covid còn kéo dài là nạn đói xứ Ấn còn tiếp tục lê thê..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]