Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14

21/06/201608:08(Xem: 11771)
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14
Bài Thuyết Pháp Từ Đức Dalai Dama Thứ 14
Thích Liễu Nguyên thuật lại
Thuyet-giang-2
Nhân Duyên
Một nhân duyên lớn nhân dịp chùa Điều Ngự tổ chức khánh thành chánh điện chùa, ban tổ chức HT.Thích Viên Lý đã mời Ngài Dalai Dama Thứ 14 giảng pháp cho đại chúng trong 2 ngày thứ 7 và Chủ Nhật ngày 18 và 19 tháng 06 năm 2016. Đây là một thiện duyên cho cộng đồng người Việt hải ngoại mà đặc biệt là người Việt tại Hoa Kỳ.
Theo tin tức thì mấy ngày trước Ngài đã có cuộc gặp với Tổng Thống Mỹ Brack Obama. Khoá Giảng vào ngày 18 là đúng 9 giờ sáng, mọi người muốn tham dự thì phải chuẩn bị đi từ rất sớm vì số người quá đông mà chỗ ngồi thì lại giới hạn, cộng thêm an ninh rất chặt chẽ để bảo vệ Ngài cùng tất cả mọi người.  Theo ước tính thì từ 10 ngàn người đến 15 ngàn người.
Đến Đúng Giờ
Cũng vì sợ trễ nên Liễu Nguyên đã dậy chuẩn bị từ rất sớm, 4 giờ sáng đã dậy chiên cơm ăn sáng và 6 giờ sáng thì bắt đầu xuất phát chùa từ Việt Nam Los Angeles về chùa Điều Ngự cùng đi có với HT. Thích Như Minh và hai Phật Tử: Đức Chân Châu và Anh Minh Nhật làm tài xế. Do sáng sớm thứ 7 đường Cali không kẹt xe nên đến được khá sớm, vào lúc 7 giờ 45 phút. Một điều rất ngạc nhiên là vào thời điểm đó số người đã tấp nập. Ai đi xe cá nhân điều phải đậu xe từ mấy lock đường cách đó rất xa, khoảng gần 2 km. Còn ai muốn đậu trong bãi xe cách xa đó thì xe ban tổ chức đón xe bus đưa đến 10 phút 1 lượt. Rất đông cảnh sát, an ninh làm việc để bảo vệ an toàn cho mọi người.
Thuyet-giang-1
Được drop up ngay sau đoàn người get line dài khoảng gần 1 km, Liễu Nguyên với Hoà Thượng cứ vậy get line tuần tự sau đoàn người mà không biết quý Thầy thì sẽ có lối đi riêng. Cũng nhờ thấy có một đoàn quý Thầy người Srilanka họ đi riêng nên đã nhập vào đi chung và đến cổng an ninh thì mỗi Thầy được phát 1 cái thẻ Tăng Đoàn và được tuần tự kiểm tra an ninh nghiêm ngặt rồi mới vào cổng đến trước sân chùa là chỗ Ngài giảng pháp. Nếu đi trễ một tí thì chắc sẽ không vào được. Vì trước lúc 9 giờ thì chỗ ngồi khoảng 10 ngàn người bên trong đã kính hết chỗ. Rất đông người đến vì hết chỗ nên cảnh sát an ninh đã không cho vào nữa, cũng ước tính khoảng 2 ngàn người.
Ngồi Dưới Cái Nóng Mùa Hè
Sáng thứ 7 mùa hè trời rất nóng, theo nhiệt độ báo lúc đó thì 84 độ F có khi lên 90 độ F. Nhưng ai ai cũng háo hức được diện kiến đảnh lễ và được nghe Ngài thuyết giảng Phật Pháp. Quý Hoà Thượng được ban tổ chức xếp ngồi trên tiền đường hai bên Ngài, còn chư Tăng Ni trẻ được xếp ngồi dưới sân đối diện Ngài. Liễu Nguyên may mắn đi sớm được xếp hàng ghế đầu nên được nhìn Ngài rất rõ. Trong lúc Ngài thuyết giảng Ngài rất để ý đến thánh chúng ngồi dưới nắng nóng nên Ngài cứ hỏi quý thầy quý vị có nóng lắm không, vì trời rất nóng mà không có mái che tất cả Chư Tăng, Phật Tử Quan Khánh, rất nhiều Nghị Viên các thành phố lân cận… đều ngồi dưới cái nóng mùa hè. Với độ tuổi 81 Ngài cũng cảm nhận cái nóng đó trong trái tim Từ Bi, Ngài dạy đại chúng hãy đội mũ, dù, thậm chí ai không có thì lấy tay áo hoặc sách báo che lên đầu cho đỡ nóng để lắng nghe trọn buổi thuyết giảng trong vòng 2 tiếng. Tăng Ni cũng may mắn được ban tổ chức phát cho 3 vị chung 1 cái dù nên mới đỡ nóng để nghe Ngài thuyết pháp.
Bài Thuyết Pháp Hai Tiếng
Với vỏn vẹn hai tiếng đồng hồ, Ngài thuyết giảng cho mọi tầng lớp, nhiều căn cơ khác nhau cùng hiểu rõ về Phật pháp không phải là đơn giản mà chỉ có những biện tài của các Vị Bồ Tát mới làm được. Đức Dalai Dama đã làm được việc đó, thì ắt phải là một vị Bồ Tát sống. Ngài dùng Trí Tụệ và Từ Bi để thuyết giảng nên như một trận mưa lớn mà muôn loài cây cỏ tuỳ theo sức của mình mà hấp thu đủ để sống an lành. Theo tiểu sử của Ngài thì Ngài đã hoàn thành Tiến Sỹ từ khi tuổi rất trẻ và đã được đào tạo rất đặc biệt, nghiên cứu Tam Tạng Kinh điển rất sâu đặc biệt là đã học hết tất cả các bộ luận nổi tiếng của các Bồ Tát Mã Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Pháp Xứng…
Chỉ hai tiếng đồng hồ mà Ngài đã thâu tóm lại tất cả giáo điển của Đức Phật thật hay, rõ ràng và thật mầu nhiệm.
Sau khi chào hỏi và cám ơn đại chúng, Ngài bắt đầu vào bài giảng với lời rằng: “ Tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều sanh ra cùng chung với thân con người và chết đi đều giống nhau”,  Liền đó Ngài nói về Khổ Đế mà tựu trung là 8 cái khổ mà con người ai ai cũng đều gánh chịu: 1. Sanh khổ, 2. Lão khổ, 3. Bệnh khổ, 4. Tử khổ, 5. Ái biệt ly khổ, 6. Cầu không được là khổ, 7. Oán thù gặp nhau là khổ, 8. Có thân ngũ uẩn nầy là khổ. 
Ngài dạy Đức Phật cũng có thân người như chúng ta, là một thái tử con vua Tịnh Phạn xưa thuộc Ân Độ cũng vì thấy rõ 8 điều khổ căn bản đó và muốn tìm chân lý để giải thoát khổ đau cho bản thân, con người và chúng sanh.
Ngài đã nhấn mạnh vào việc thiền định, đó là thiền quán tức phải tư duy sâu và đúng, và thiền chỉ là hãy tập trung vào đối tượng để thấy rõ đối tượng. Đức Phật cũng nhờ thiền định suốt 49 ngày đêm mới ngộ đạo tìm ra nguyên nhân khổ đau sanh tử luân hồi là do Tham, Sân, Si mà Tham Ái là nguồn gốc, gọi đây là Tập Đế. Ngài cũng nói Đức Phật cũng nhờ thiền định mà tìm ra Đạo Đế: 37 phẩm trợ đạo, ai tu tập theo thì sẽ thoát khổ đau sanh tử, được hạnh phúc giải thoát. Thế rồi Ngài nhấn mạnh rằng, sau khi đức Phật ngộ đạo đã thấy chân lý quá thâm sâu, Đức Phật sợ con người, chúng sanh khó mà lãnh hội nên nghĩ là sẽ Niết Bàn cùng chánh pháp. Nhưng rồi Đức Phật quán sát thấy có người sẽ tiếp nhận từng phần nhỏ của chánh pháp nên Đức Phật mới từ bi chia ra Chánh Pháp thành 3 thừa: là Thanh Văn thừa cho những ai tu tập Tứ Diệu Đế, Duyên Giác Thừa cho những ai tu tập Thập Nhị Nhân Duyên và Bồ Tát Đạo cho những ai tu tập Lục Độ Ba La Mật nguyện cứu độ hết thảy chúng sanh. Ngài nói là chính đức Phật đã quán xét và tìm đến hoá độ 5 anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển, Những người mà đã cùng chung với Ngài tu 6 năm khổ hạnh trước đó. Trong lần chuyển pháp đầu tiên qua bài pháp Tứ Diệu Đế thì 5 anh em Kiều Trần Như chứng quả vị A La Hán. Từ đây Phật Pháp Tăng được hình thành. Kể từ đây ngoài Đức Phật đã có người biết được hạnh phúc của việc học, thọ trì thực hành theo Phật Pháp và đạt được hạnh Niết Bàn là Diệt Đế. Ngài nhấn mạnh rằng ngoài việc nguyên cứu tam tạng kinh điển phải thực hành theo thì mới có hạnh phúc, an lạc giải thoát. 
Tiếp đó Ngài nói đến lần chuyển pháp luân thứ 2 của đức Phật tại núi Linh Sơn qua Kinh Bát Nhã. Ngài nhấn mạnh kinh Bát Nhã rất thâm diệu mà cốt yếu là Từ Bi và Trí Tuệ, là nơi sanh ra chư Phật. Việc tu tập đầu tiên là phải thấy nhân vô ngã qua việc quán chiếu sâu thấy năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thuộc về thân là vô ngã. Kế đến quán thật sâu để thấy vạn pháp cũng vốn giả uyển vô ngã. Ngài nói các pháp không phải tự sanh ra độc lập riêng biệt mà do rất nhiều nhân duyên mà hình thành. Nó có thì có đó ai chấp chặt sai lầm thì liền đó sẽ khổ đau, phiền não sanh khởi. Vì bản chất nó là vô thường, duyên sanh vô ngã. Ngài nói rằng nếu suy xét cho cùng theo ngôn ngữ khoa học ngày nay gọi là vi lượng tử thì bên trong vốn trống không, nguyên lý nầy Ngài Long Thọ vị tổ thể kỷ thứ 2 bên Ấn Độ đã nói rất rõ và hôm nay khoa học mới thực nghiệm, Học Thuyết Ngài Long Thọ còn cao hơn một bậc là hãy ly hết thảy các tướng, chẳng có, chẳng không, mà cũng chẳng vừa có vừa không. Xả bỏ tất chấp, tất cả sự thấy biết giữa chủ thể và khách thể thì mới nhập vào cái bao la diệu dụng. Ngài nói Ngài đã từng gặp rất nhiều các nhà Khoa Học để luận bàn rất nhiều về điều nầy. Ngài cũng nói nếu muốn hiểu rõ được thì cần phải học sáu bộ luận của Ngài Long Thọ mà quan trọng nhất là bộ Trung Quán Luận, rồi học các bộ luận của Ngài Thế Thân mà quan trọng nhất là bộ Duy Thức Luận. Ngài cho ví dụ: Nếu có một màu xanh mà ta không dùng mắt nhìn thấy thì màu xanh cũng xem như tồn tại mà không tồn tại, chuyện nầy khoa học cũng đã công nhận mà trong Duy Thức còn vô số cái rất hay. Ngài nói môn Duy Thức và Kinh Hoa Nghiêm sẽ hợp với những sự tìm tòi của Khoa Học ngày nay và tương lai…Ngài nói rằng chính Ngài đã suốt 30 năm học hết Tam Tạng Kinh Điển và nhờ các Bộ Luận của các Bồ Tát Long Thọ, Thế Thân, Pháp Xứng…, Kim Cang Thừa nguồn góc Phật Giáo Tây Tạng, Ngài mới thấy được Phật Pháp. Nên Ngài khuyên thính chúng cũng nên như vậy và hãy phát khởi Tâm Bồ Đề cứu độ chúng sanh bằng cách liễu ngộ Phật Pháp và đi tìm chúng sanh để hoá độ như chính Đức Phật cũng đã đi tìm chúng sanh hoá độ sau khi đức Phật ngộ đạo.
Ngài cũng nói Đức Phật chuyển luân lần thứ 3 bằng việc dùng Mật Chú cho những ai thanh tịnh thì tiếp nhận tu tập để thẳng vào cảnh giới Phật đó là Pháp Hoa, Lăng Già, Kim Cang Thừa…
Trời vẫn cứ nóng nhưng dường như cả  thính chúng như được trở về với chánh Pháp khi đức Phật còn tại thế. Trong khi Ngài thuyết pháp cũng có rất nhiều người muốn đến chụp hình nên đã tiến đến quá gần Ngài khiến an ninh bảo vệ đã can thiệp không cho phép làm vậy. Thấy vậy Ngài nói rất từ bi rằng, không sao đâu, miễn rằng đừng làm ồn đến buổi thuyết pháp thì ngồi đâu cũng được. Thế rồi ngài thấy em bé 2 tuổi gần đó ngài vẫy tay chào và bảo hãy đến gần bên Ngài. Một điều xúc động hơn là một em bé tàn tật khoảng 4 tuổi hình như không đi, không, nói được mà chỉ nằm trên xe lăn, là con của một gia đình người Mỹ Trắng muốn được gần Ngài đễ được bình an. Ngài đã rất hoan hỷ nên an ninh cảnh sát đã bế nguyên cả xe lăn và em bé lên pháp toàn cận Ngài để em bé được nhìn Ngài và được Ngài cùng thính chúng cầu an.
Sau đó buổi thuyết pháp lại tiếp tục. Ngài nói rằng truyền thống Phật Pháp Đại Thừa, Nguyên Thuỷ, hay Kim Cang Thừa… Điều bắt nguồn từ Đức Phật do vì truyền thống xứ sở, quốc gia khác nhau nhưng đều được xây dựng trên Giới Định Tuệ và luôn lấy Từ Bi và Trí Tuệ để thực hành thiện pháp và đó cũng là hạnh phúc cho mình và người. Về Giới Luật thì 5 Trọng Giới luôn là căn bản và các giới luật khác cũng được khai triển thêm từ đó.
Ngài nhấn mạnh rất nhiều lần là muốn hiểu được Kinh Điển lời Phật Phật trong nhiều tạng Kinh Pali, Sankarit, Tây Tạng, Hán Tạng, Việt Tạng…thì cần phải đọc và nguyên cứu các Bộ Luận của các Bồ Tát sau thời Đức Phật như Bồ Tát Long Thọ, Bồ Tát Thế Thân, Pháp Xứng…. Vì các Tổ Sư Bồ Tát đó đã đọc hết kinh Phật đã hiểu, liễu ngộ nên đã giảng giải, để lại các bộ luận cho thế hệ chúng ta, nghiên cứu tu tập. Ngài nói Ngài cũng nhờ có thiện duyên mới đọc hết các Bộ Luận đó và rồi theo truyền thống Tây Tạng thì cùng nhau ngồi bàn luận Phật pháp. Việc luận bàn Phật Pháp cũng làm theo lời dạy của Đức Phật. Những người nghi ngờ Phật pháp sẽ đi tìm hiểu giải đáp và sớm ngộ rõ Phật pháp. Nên việc nghi ngờ và tìm câu trả lời là rất cần thiết. Ngài nói đạo Phật không phải chỉ tin rồi đến mà hãy đến và thực hành thấy hạnh phúc thì đó mới là chính mình thấy Phật qua việc chính mình làm việc Phật…
Ngài nói chúng ta cùng làm người, ai ai cũng khát khao hạnh phúc giải thoát và sự thật hạnh phúc có trong trái tim từ bi mà bất kỳ ai không kể tôn giáo nào nếu có trái tìm từ bi qua việc làm trí tuệ thì sẽ thấy hạnh phúc. Và ai ai cũng như vậy thì nhà nhà hạnh phúc, thế giới hoà bình hạnh phúc.
Ngài cũng kể câu chuyện lúc Ngài ghé qua Sanfan sico thấy nhiều người vô gia cư Ngài đã đãi một bữa ăn và cùng ăn chung thân mật vì tất cả chúng ta đều là con người. 
Kết thúc là một tràng pháo tay rất dài rất hoan hỷ của thính chúng, mà theo đúng nghi thức Phật giáo thì phải là đảnh lễ dưới chân Ngài, hoặc đi nhiễu quanh Ngài ba vòng hoặc bảy vòng từ phía trái qua phải, nhưng vì bối cảnh không gian không cho phép và trong số đông 15 ngàn người tham dự không chỉ Phật tử truyền thống của một quốc gia mà rất nhiều quốc gia và có rất nhiều tôn giáo khác cũng đến nghe pháp trong hoan hỷ.
Cũng vừa đúng 11 giờ, cái nóng gay gắt hơn và chắc ai cũng đói, nên Ngài mĩm cười khì khì với cái tuổi 81 mà luôn thật tươi như một Vị Bồ Tát Lớn Tuổi rồi nói rằng, ôi thật mừng đã hoàn thành, rất cám ơn mọi người đã lắng nghe mặc dù Tôi biết thời tiết rất nóng.
Tuy 2 tiếng ngắn ngủi với khác biệt ngôn ngữ, Ngài nói tiếng Anh hoặc tiếng Tây Tạng rồi được một Tỷ Kheo Ni dịch nhanh ra tiếng Việt và một Phật Tử dịch ra tiếng Anh nên nếu tính thì bài thuyết pháp chính thì Ngài dạy chỉ hơn 1 giờ đồng hồ mà đã thâu tóm toàn bộ giáo điển mà người lần đầu đến với Phật Pháp cũng sẽ hiểu và những ai đã từng nhiều năm tu học thì sẽ thấm nhuần hơn rất nhiều. Liễu Nguyên cũng được duyên lành nghe trực tiếp lần đầu cộng với gần 30 năm nguyên cứu tu học, chỉ mới đọc được mấy bộ Kinh Luận, hôm nay được Ngài giới thiệu và khuyên dạy tu tập, Ngài còn nói hạnh phúc của Ngài là được làm học trò nhỏ bé của Đức Phật Thích Ca thì con cũng hạnh phúc được làm học trò nhỏ bé của Ngài. Liễu Nguyên chỉ vắn tắt lại những gì nhớ được, chắc chắn còn nhiều ý hay mà Liễu Nguyên không nhớ nên mong quý vị hoan hỷ. Chắc rằng nhân duyên Phật Pháp còn mãi nên những cái Liễu Nguyên chưa nhớ sẽ gặp và nói tiếp trong tương lai.
Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 9544)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6830)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 9237)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5612)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5530)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 6273)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4805)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5405)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 5015)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5927)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]