Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tỉnh thức và cảnh giác

30/05/201605:36(Xem: 6421)
Tỉnh thức và cảnh giác

Hoa cuc quang duc (3)

Tỉnh thức và cảnh giác
 


Đức Phật đã dạy:

“Này các Kàlàmà!

1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết,

2- Chớ có tin vì nghe truyền thống,

3- Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn,

4- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng,

5- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình,

6- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường,

7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện,

8- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình,

9- Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền,

10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình, v.v..

Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào, tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này, Kàlàmà hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”.

 

Đây là lời dạy sâu sắc của đức Phật trong thời đại  mà xã hội Ấn độ lúc bấy giờ có quá nhiều Đạo sư, nhiều tôn giáo, nhiều tín ngưỡng dễ lạc dẫn tín đồ vào mê tín. Phật giáo lúc bấy giờ cùng một vài hệ phái tâm linh thoát khỏi sự chi phối của hệ thống Tôn giáo đương thời, chuyên sâu vào pháp hành chuyển hóa tâm thức, không đặt nặng vào lễ nghi cúng bái cầu khấn, không vướng vào hình thức thờ phượng rườm rà. Tài sản của Tu sĩ lúc bấy giờ  chỉ có tam y nhất bát, ngoài ra không có bất cứ phương tiện vật chất nào, chính nhờ thế mà hành giả không bị vướng bận những vật ngoại thân, không quan tâm đến ăn mặc ở bệnh, có thời giờ hướng tâm giải thoát.

Cuộc sống ngày nay, khó mà thoát  ly hoàn toàn, vì cơ chế và nhịp sống của nhân loại theo đà tiến hóa khoa học và tiện nghi vật chất, tu sĩ không thể ngủ dưới gốc cây như xưa, không đi khất thực hàng ngày.Việc hoằng hóa cũng cần có những tiện nghi tối thiểu, nếu tu sĩ biết giới hạn khi sử dụng các tiện nghi và không để tiện nghi biến thành nhu cầu hưởng thụ, thì cho dù sống trong thời đại nào, việc hành trì hướng đến giải thoát cũng không có gì chướng ngại. Mục đích hành giả là làm chủ bản thân thì sẽ làm chủ mọi tiện nghi vật chất, ngược lại bị tiện nghi chi phối  thì lòng tham và mọi kiết sử theo đó mà phát sanh.Mục đích hành trì của hành giả là hướng vào bên trong.

Tâm lý hướng ngoại là tâm lý chung của con người, kể cả tu sĩ đi tìm chân lý và minh sư cho lý tưởng giải thoát, cũng bị vướng vào ngoại tướng nên càng nhiệt thành, càng đi xa chân lý. Đức Phật đã dạy: “Sau khi Ta nhập Niết Bàn, các Thầy Tỳ kheo hãy lấy Giáo Pháp và Giới Luật của Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành…” thế mà mấy ai tỉnh thức trước câu nói như thế để rồi vẫn là lữ hành trong màn đêm đi tìm chân lý.

Giáo pháp và giới luật là gì?  Bốn bộ kinh A Hàm.  Năm bộ kinh Nikaya. là ngón

tay chỉ mặt trăng, là bản đồ cho hành giả. Lời dạy của Phật thông qua kinh điển không là chân lý mà chỉ là phương tiện hướng ta đến chân lý. Bám trụ vào đó như lữ khách bám vào phương tiện qua sông, sẽ khó tìm thấy đích đến. Giáo pháp là phương pháp dạy hành giả tiến đến giải thoát chứ bản thân giáo pháp không thể giải thoát, thế thì chuyên tâm trì tụng cũng không thể giải thoát. Thâm nhập kinh tạng thì trí tuệ như biển, nghĩa là tri kiến rộng mở chứ không thể nhờ đó mà giải thoát, khi mà tập khí, vọng thức còn tồn đọng trong a lại da thức. Tâm là mãnh đất của thiện và ác, tốt và xấu, tu tâm chỉ là ngăn ác hành thiện; một vườn tâm mọc toàn giống thiện vẫn không thể thoát khỏi tử sanh, vì đó là hạt giống phúc báu để sanh quả tốt cho kiếp hậu lai. Người tu giải thoát là  không tích trữ bất cứ hạt giống nào cho dù là hạt giống  phúc báu; tuy nhiên hạt giống phúc báu rất cần để vun bồi gốc rễ  cho cây giải thoát trổ hoa, vì thế, ngoài vấn đề tạo phúc, cần tu tập tuệ giác, phước huệ song tu là đôi cánh vững mạnh cho hành giả. Người chuyên tu huệ mà thiếu phước, thường gặp nhiều chướng ngại, dù có thành đạt quả vị thì đó chỉ là cây nở hoa trên vùng đất khô cằn mà thuật ngữ gọi là "càn huệ địa".

 

Tu phước rất đa dạng, không chỉ hạn chế trong phạm vi bố thí tài vật. Những gì lợi người, lợi mình và lợi cho tất cả chúng sanh đều là phước, chỉ lợi riêng mình thì không thể gọi là phước mà là vị kỷ. Tu huệ cũng thế, nếu kết quả cho riêng mình thì chưa phải là pháp cứu cánh, chưa nói đến pháp hành đó đưa đến đâu khi mà hành giả chưa phân biệt được thế nào là chánh và tà. Cho dù đó là pháp Phật, nhưng hành giả sử dụng vì mục đích lợi dưỡng thì cũng không thể gọi là chánh. Kinh điển đem tụng cho ma chay làm phương tiện sống thì chánh sao? Giảng nói kinh điển vì mục đích danh-lợi-tình là chánh sao? "Chánh nhơn hành tà pháp, tà pháp thị chánh pháp, tà nhơn hành chánh pháp, chánh pháp thị tà pháp". Chánh và tà cách nhau đường tơ kẽ tóc của tâm hành giả.

 

Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào, tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh khổ đau”. Thời này, Kàlàmà hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”.

 

Những lời dạy trên đây của Phật là kim chỉ Nam, là thước đo trước mọi giáo lý trên thế gian, là sự cảnh tỉnh cho chính mình. Tuy nhiên, khởi đầu cho việc tu tập thường là tâm chánh thiện, nhưng một thời gian hành trì thường bị lạc dẫn bởi ngũ ấm ma, do nghiệp thức tiềm ẩn, đôi lúc như bế tắt, đôi khi như giải đãi, đến khi tinh tấn và tiến bộ phần nào thì hành giả lại gặp phải những tình huống của ảo ảnh, ảo giác đánh lừa, cứ nghĩ mình sở đắc.

 

Trên đạo lộ tâm linh, hành giả gặp không ít nhiêu khê, vì thế cần có minh sư chứng ngộ đủ kinh nghiệm hướng dẫn trong những lúc bế tắt cũng như lúc hưng phấn giả tạo mà ta cảm thấy an lạc, hoan hỷ.

 

Ngoài giáo pháp hành trì, hành giả cần nghiêm túc trong vấn đề kỷ luật bản thân, tức là giới luật. kinh Trường Bộ, đức Phật dạy:“Chỗ nào có giới luật nhất định chỗ ấy có trí tuệ, chỗ nào có trí tuệ nhất định chỗ ấy có giới luật…”. 

Đức Phật đã dạy: “dứt bỏ sanh y thì Phạm hạnh mới xong”.  Lời dạy này rõ ràng và cụ thể, xác định dứt khoát “có dứt bỏ thì có giải thoát”. Dứt bỏ sự ràng buộc về Danh và tướng ngoài sự ràng buộc về vật dục, muốn dứt bỏ được thì không thể rời xa giới luật tự thân. Kỷ luật bản thân là cách tốt nhất để tiến xa trên đạo lộ tâm linh. Một khi giới luật tinh nghiêm thì không có gì có thể cám dỗ lạc dẫn hành giả.

 Luôn Tỉnh thức và luôn cảnh giác từ ngoại cảnh đến tâm thức, hành giả sẽ nhận được kết quả khả quan từng giây phút hiện tiền. Như thế, không nên tin vào cảm quan hay tin vào ngoại cảnh mà trí tuệ nhận xét pháp nào lợi người, lợi mình và lợi cho tất cả chúng sanh, và kỷ luật tự thân đó là lời dạy chân thật của đức Phật, là ánh sáng dẫn đường cho ta giữa tối tăm nhiều cám dỗ trong cuộc sống.Lời dạy trên đây không chỉ có giá trị trong xã hội đương thời mà luôn có giá trị trong mọi thời đại, nhất là ngày nay.

MINH MẪN

21/6/2016

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/08/2020(Xem: 5570)
Vào hôm thứ Hai, ngày 27 tháng 7 năm 2020, một cuộc họp trực tuyến (online) của nội các do bà Sheikh Hasina, Thủ tướng Chính phủ Bangladesh chủ trì, đã thông qua dự thảo thỏa thuận giữa Tổ chức Lumbini Development Trust of Nepal và Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Bangladesh về việc xây dựng tu viện Phật giáo Bangladesh. Tu viện Phật giáo được đề xuất sẽ được xây dựng tại Lâm Tỳ Ni, nơi Đản sinh của Đức Phật lịch sử. Việc xây dựng được bắt đầu với lợi ích cá nhân, và kế hoạch của Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh tại Nepal, Mashfee Binte Shams, và Bí thư thứ nhất, Asit Baran Sarkar.
20/08/2020(Xem: 6816)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương. Đây là một trong những bộ kinh quan yếu nhất của Thiền Tông Trung Hoa đặc biệt từ thời Lục Tổ Huệ Năng (638- 713), người đã ngộ đạo, kiến tánh qua câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" trong lời khai thị từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (601-674). Cụm từ "Ưng Vô Sở Trụ" được nhắc đến hai lần trong kinh: lần 1st ở chương 4 ("Diệu Hạnh Vô Trụ") và lần 2nd ở chương 10th ("Trang Nghiêm Tịnh Độ). Đây không là sự trùng lặp mà mà là sự tiến triển vi diệu về ý nghĩa của cụm từ này với rất nhiều hàm tàng đặc sắc và quan trọng trong phân biệt nhận thức theo Duy Thức Học cùng hành trì tu tập Phật đạo.
17/08/2020(Xem: 12322)
Năm 2020 những chương trình tu học Phật pháp như Phật Đản,Vu Lan, Khoá Tu Học Bắc Mỹ, Khoá an cư của Giáo Hội.v.v...khắp toàn cầu đều phải tạm ngưng vì nạn dịch COVID-19. Tại Mỹ và một số các nước, tất cả học đường phải đóng cửa và chuyển qua online. Giáo sư và sinh viên phải chật vật vì một hệ thống mới hoàn toàn. Sự thay đổi đó làm tất cả mọi người xôn xao và lo lắng, bất an...Bản thân chúng con, lịch giảng của các bang được sắp xếp vào năm trước-2019 phải huỷ bỏ. Phật tử khắp nơi gọi đến thăm hỏi và mong ước có được một lớp học Phật pháp bằng một phương tiện nào đó để tâm được an, thân được nhẹ từ lời giảng dạy trực tiếp của Chư Tăng-Ni. Đây cũng là điều mà chúng con trăn trở và tham vấn ý kiến của Chư tôn đức để chúng con có thể mở ra một chương trình tu học online miễn phí cho tất cả quý Phật tử khắp nơi trên thế giới.
16/08/2020(Xem: 8844)
Người giải thoát giống như một bánh xe quay tròn đều, không bị mắc kẹt, vướng bận, thanh thoát, thông suốt. Họ không còn ý niệm “tôi là như thế này, tôi là như thế nọ, tôi là đây, tôi là kia”. Người tu nhẫn nhục mà thấy ta đang nhẫn nhục là mắc kẹt rồi. Càng nhẫn nhục chừng nào thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Nhẫn nhục mà không thấy ta nhẫn nhục thì mới thông suốt. Người tu hạnh khiêm cung mà thấy mình khiêm cung là mà mắc kẹt rồi. Càng khiêm cung chừng nào, thì CÁI TA càng lớn chừng đó. Tu riết như vậy lâu ngày thành bịnh, hết thuốc chữa vì kẹt lâu ngày, bánh xe không quay tròn đều được, thậm chí không thể chuyển động được vì các bộ phận bị ô-xy hóa, bị rỉ sét do chấp pháp, chấp tướng lâu ngày, thành thử bệnh nặng.
16/08/2020(Xem: 5975)
Một pho tượng Phật, được phát hiện trong khi đào móng cho một ngôi nhà tại Mardan, Mardan là một thành phố thuộc Khyber Pakhtunkhwa, Pakistan, hôm thứ Bảy, ngày 18 tháng 7 vừa qua, đã bị công nhân xây dựng địa phương đập vỡ thành nhiều mảnh bởi họ không tôn trọng thánh tích Phật giáo, khiến chính quyền địa phương phẫn nộ và lo lắng.
16/08/2020(Xem: 6254)
Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại, với nhiều công trình nổi tiếng và bền bỉ. Ông đã từ giã trần gian và đã để lại ấn tượng những hình ảnh Phật giáo. Cư sĩ Milton Glaser, người Mỹ, nhà Thiết kế Đồ họa hiện đại đã mãn báo thân, trút hơi thở cuối cùng tại quận Manhattan, thành phố New York, Hoa Kỳ vào ngày 26 tháng 6 vừa qua, vào ngày Sinh nhật lần thứ 91 của ông.
15/08/2020(Xem: 5782)
(Thimphu, Bhutan) – Vào ngày 11 tháng 8 vừa qua, Chính phủ Vương quốc Hy Mã Lạp sơn Bhutan đã áp dụng lệnh phong tỏa toàn quốc đầu tiên kể từ khi đại dịch Virus corona tấn công Vương quốc Phật giáo này. Chính phủ Vương quốc Phật giáo này đã ban hành lệnh cách ly cho khoảng 750.000 người dân, các cơ quan nhà nước cũng đề nghị đóng cửa tất cả các trường học, cơ sở đào tạo và các cửa hàng kinh doanh; hoãn các kỳ thi và không rời địa bàn sinh sống trong thời gian này.
15/08/2020(Xem: 6070)
Sự từ biệt trần gian Ta bà của Cư sĩ Steven D. Goodman (1946-2020) là vô cùng kính tiếc, một sự mất mát cho việc nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng tại phương Tây. Cư sĩ Steven D. Goodman, Giáo sư, Tác giả và Dịch giả nổi tiếng bởi các tác phẩm kinh điển Phật giáo Tây Tạng, đã an nhiên trút hơi thở cuối cùng tại tư gia và về cõi Phật vào ngày 03 tháng 8 năm 2020, Oaklan, Hoa Kỳ. Hưởng thọ 75 tuổi.
14/08/2020(Xem: 7551)
Phần này bàn về cách dùng tiền quí, cheo, bài ca dao “đi chợ tính tiền” và các cách tính tiền thời trước và thời LM de Rhodes, dựa vào tự điển Việt Bồ La và một số tài liệu chữ Nôm/chữ quốc ngữ. Đây là những chủ đề có rất ít người đề cập đến. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
11/08/2020(Xem: 9648)
Ai đã truyền Việt Nam Phật Giáo qua Trung Quốc: Khương Tăng Hội, người Việt Nam. Vào năm nào: năm 247 tây lịch. Nơi nào tại Trung Quốc: Kiến Nghiệp, nay là Nam Kinh. Chùa đầu tiên được xây dựng tại Kiến Nghiệp là chùa nào: Do Khương Tăng Hội xây dựng chùa Kiến Sơ tại Kiến Nghiệp, Nam Kinh, hiện nay, 2020, vẫn còn. Trưỡng lão Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Đệ Nhất Phó Pháp Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã đến thăm chùa đó cách nay mấy năm và đã xác nhận với tôi tại chùa Huê Nghiêm của Ngài tại quận hai, thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 7 năm 2017. Khương Tăng Hội mất năm 280. Nghĩa là Ngài hành đạo tại Trung Quốc được 33 năm. Trong khi đó Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc năm 520, nghĩa là sau Khương Tăng Hội 273 năm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]